này đi theo hai đường lối đối lập nhau, tạo nên một sự cạnh tranh kéo dài để phục vụ
lợi ích của những vị vua kế tiếp nhau. Một cuộc li khai thứ hai diễn ra vào thế kỷ IV,
khi vua Mahsena chịu ảnh hưởng của một vị sư thuộc phái Đại Thừa ở miền Nam Ấn
Độ, và vì vậy ông muốn tu viện Mahvihra cũng trở thành Đại Thừa. Những tăng ni cư
ngụ trong tu viện từ chối và bỏ đi nên vua đã phá huỷ tu viện rồi xây Tu viện Jetavana
cho phái Đại Thừa. Vị vua kế tiếp lại một lần nữa bảo trợ phái Mahvihra, những
người này cho xây lại tu viện và đến ở tại đó, và dưới triều vua này đã thiết lập lễ hội
Mahinda, một lễ hội để mừng việc "thanh tinh hóa" Giáo pháp. Từ đó về sau, trong
nhiều thế kỷ, ba tu viện này luôn tranh giành sự bảo trợ và quyền lực, tu viện
Abhayagiri cởi mở hơn dưới ảnh hưởng của các tư tưởng Đại Thừa, còn Mahvihra thì
nhấn mạnh tính chính thống nguyên thủy của mình. Mỗi tu viện lại có
một Nikāya, hay tông thụ giới riêng của mình. Tình trạng này còn tiếp tục mãi cho tới
thế kỷ XII khi có cuộc "thanh tịnh" và thống nhất Tăng Già dưới sự thống trị hoàn
toàn của Mahvihra do việc vua Parakkama Bhu I đơn giản huỷ bỏ hai tông phái kia.
Ngoài việc Tam Tạng được san định tại đây, còn có những tác phẩm quý báu được
viết ở Sri Lanka, nổi bật là bộ biên niên sử Dīpavaỵsa (thế kỷ IV) và Mahāvaṃsa (thế
kỷ V), cho thấy rõ sự kết hợp giữa đạo và đời là nét đặc trưng của Phật giáo Sri
Lanka. Còn có những tác phẩm của Buddhaghosa, một sư Ấn Độ đã đến Sri Lanka từ
đầu thế kỷ V. Ngay khi đến đây, ông đã bắt đầu biên soạn một tổng luận giáo lí,
cuốn Visuddhi-magga, hay "Đạo Thanh Tịnh", xếp theo trình tự giới (sīla), định
(samādhi), huệ (paññā). Sau đó ông tóm lược những bình luận về luật (Vinaya) và
phần lớn kinh (Sutta Piṭaka), từng du nhập vào Sri Lanka từ Ấn Độ cho tới thế kỷ I
CN.
(166)
. Qua tác phẩm của mình, Buddhaghosa đã gây được một ảnh hưởng rất lớn
đối với giáo lý của tông phái Theravda trên đảo quốc này, và học thuyết của Theravda
như chúng ta biết ngày nay, đó là học thuyết của tông phái Mahvihra, chủ yếu là kết
quả công trình tổng hợp của vị sư này. Chúng ta còn giữ lại được bản dịch tiếng Trung
Hoa một tổng luận có tên là Vimutti-magga "Đạo Giải thoát", song song với Visuddhi-
magga, có lẽ đã được soạn tại tu viện Abhayagiri Vihāra. Cũng quan trọng không kém
là tác phẩm Buddhpadna từ khuddhaka Nikya - được soạn vào thế kỷ I hay II CN.,
trước khi phái Đại Thừa bị tiêu diệt vào thế kỷ III. Tác phẩm này cho thấy ảnh hưởng
của những giáo lý tương tự như trong các kinh Sukhāvatī-vyūha Sūtra của Đại Thừa.
Cũng có những bằng chứng đáng tin cậy về việc du nhập vào Sri Lanka những bản
văn thần bí Tantra Đại Thừa trước thế kỷ IX, và vào thế kỷ XVIII, những người châu
Âu đi thăm Sri Lanka trở về đã mô tả các Tăng Ni ở đây tụng kinh bằng chuỗi gọi
là ml.
(167)
Rõ ràng là Phật giáo nguyên thủy ngoài Mahvihra ở Sri Lanka và ở khắp
Đông Nam Á có thể đã mang những yếu tố thần bí Tantra, tuy rằng những bằng chứng
văn bản chủ yếu được tìm thấy phần lớn là ở Cam Bốt. Yếu tố thần bí này không phản
ánh ảnh hưởng của Đại Thừa cho bằng nó phản ánh sự phát triển những phép thần
thông Tantra trong Phật giáo trên khắp đất nước Ấn Độ. Trong những vùng chủ yếu
không thuộc phái Đại Thừa ở Đông Nam Á, những phép thần thông này được áp dụng