vào những lí thuyết và thực hành của phái Theravda, và thẩm quyền kinh điển trong
Kinh điển Pāli, tạo ra cái được gọi là một Theravda "thần bí". Tuy nhiên, chỉ nhờ vào
những chứng cớ của các bức tượng điêu khắc người ta mới thấy rõ được rằng Đại
Thừa đã khá phổ biến khắp nước. Tuy nhiên theo những bài tường trình hiện đại tìm
thấy nơi lịch sử Phật giáo nơi đảo quốc đã trình bày được một dòng dõi liên tục không
đứt đoạn và thanh tịnh về Phật giáo Nam Tông. (Chúng ta chỉ có thể thừa nhận là
những trào lưu tương tự như vậy cũng đã được truyền tới các phần đất nước khác tại
Đông Nam Á với các hệ phái được nhận đại thọ giới ở tại Sri-lanka). Những di tích
thuộc về việc sùng bái khá phổ biến tại Avalokitévera ngày nay vẫn có thể được xem
thấy nơi hình tượng Phật Nantha
(168)
.
Các sự phát triển quan trọng khác trong thời kỳ này bao gồm sự xuất hiện của
những paỵsukūlika, những vị sư mặc y phục rách rưới từ các tu viện Nikāya trên khắp
nước Sri Lanka, với chủ trương thực hành khổ hạnh bằng việc ăn mặc rách rưới và
sống trong những tu viện biệt lập. Họ được biết đến từ thế kỷ VIII, rồi bắt đầu suy tàn
ở thế kỷ XI và đến thế kỷ XII thì không còn được nhắc đến nữa. Một sự phân biệt có
giá trị lâu dài hơn là giữa những sư ni sống trong làng và những sư ni sống trong rừng.
Những người sống trong rừng, gọi là araññavāsins, thích sống trong những tu viện
hay nơi ẩn dật yên tĩnh hơn trong rừng để có thể theo đuổi một đời sống tu khổ hạnh
hơn để suy niệm và học tập. Các nguồn lợi kinh tế lớn đến Tăng Già qua việc bảo trợ
của vua, thường dưới dạng các quà tặng đất đai cho những tu viện riêng biệt, kết quả
là những tu viện này dần dần trở nên những chủ đất lớn nhất trên đảo quốc trong thời
kỳ này. Sự giàu có phi thường của Tăng Già được phản ánh qua con số 60 ngàn tăng
ni ở thế kỷ V, theo báo cáo của một du khách người Trung Hoa tên là Hoa Sanh.
Những chứng cớ khác về sự bảo trợ mạnh thế của vua có thể thấy được nơi sự phát
triển to lớn về kiến trúc của các đền đài như Polonnaruva, được tài trợ nhờ số đất
khổng lồ của các tu viện.
Các cuộc cải cách dưới thời vua Parakkama Bāhu I gồm việc trục xuất khỏi Tăng Già
các tăng ni từ chối tuân giữ luật và việc tổ chức Tăng Già dưới quyền
một saṅgharāja, hay "trưởng tăng", và dưới ông là hai mahāsthaviras, là hai trưởng
lão có trên 20 năm thụ giới để điều hành các tu viện trong làng hay trong rừng. Việc
cải tổ này mang lại sinh lực mới, một phần phản ánh nơi một thế hệ mới các tác phẩm
phụ kinh điển dưới hình thức những phụ bình về các bình luận của Buddhaghosa và
Dhammapāla, và những biên niên sử, gọi là vaỵsa, về các di vật của Phật và các
tháp stupa. Một phần tiếp theo của niên sử lớn Mahāvaỵsa, gọi là Cūlavaỵsa, niên sử
nhỏ, bắt đầu được viết vào thế kỷ XIII.
Vào thế kỷ X và XI, Tăng Già Sri Lanka bị ngưng hoạt động do việc các vua Cola của
Tamil Nadu ở Nam Ấn Độ xâm lăng đảo này. Chính trong thời kỳ này mà cộng đồng
Tăng Già nữ biến mất. Vì khái niệm thụ giới trong Phật giáo dựa trên sự lưu truyền
liên tục không gián đoạn trở ngược về quá khứ lên tới Đức Phật, nên sự biến mất của