vùng Bodh Gay), trầm tư mặc tưởng và hấp thụ ảnh hưởng của trực giác biến đổi cuộc
đời của Ngài
(12)
. Ngài hoài nghi về giá trị của việc chia sẻ kinh nghiệm này cho người
khác, nhưng được phạm thiên brahm tên là Sahaỵpati kêu nài, Ngài đã đi chia sẻ cho
những ai có thể hưởng nhận lợi ích khi hiểu được thông điệp của Ngài. Ngài nghĩ
trước hết tới các vị thầy dạy trước kia của Ngài, Alra Klma và Udraka Rmaputra,
nhưng khi biết rằng lúc này các vị đó đã chết cả rồi, thì Ngài bắt đầu nhớ tới các bạn
tu khổ luyện đã từng rời bỏ Ngài với sự khinh bỉ, nên giờ đây Ngài tìm đến với họ ở
Isipatana (nay là Sarnath). Tại đây Ngài giảng dạy trong công viên nai, cách thành
phố chính khoảng sáu dặm về phía Bắc, và do lúc ban đầu họ còn rất miễn cưỡng
nghe Ngài giảng, nên thời gian đã phải kéo dài khá lâu, nhưng rốt cuộc Ngài cũng đã
mang đến được cho năm vị này sự giác ngộ mà bản thân Ngài đã chứng nghiệm được
ở Bodh Gay.
Sau cuộc thành công đầy vất vả này, việc hoằng pháp của Ngài được tưởng thưởng
bằng một thành công lớn trong việc giảng dạy cho thêm 55 thanh niên nữa, từ đó Ngài
đã có được một nhóm đồ đệ tiên khởi là 60 người, mỗi người phân tán đi một ngả,
nhưng tất cả cùng chung sức loan truyền sự giác ngộ này về chân chất của sự vật, vì
lợi ích của nhiều người (bāhujanahitya). Phần Đức Phật, Ngài còn tiếp tục giảng dạy
thêm một thời gian 45 năm nữa. Đoàn đệ tử của Ngài cứ ngày một gia tăng, và tuy rõ
ràng Ngài ưa thích sự cô tịch
(13)
, nhưng các kinh đều ghi nhận rằng Ngài sống phần
lớn thời gian ở các trung tâm đô thị, như Rjagqha, Vaiślỵ, và Śrvastỵ, vì tại những nơi
này Ngài thường có cơ hội tiếp xúc với một số đông đảo quần chúng hơn. Trong thực
tế, hình như Ngài đã sống 20 hay 25 năm cuối cuộc đời của mình ở Śrvastỵ
(14)
, thủ
phủ của Kośala, một thành phố lớn và phồn thịnh ở giao lộ của hai con đường thương
mại lớn, tại đây một môn đệ quan trọng sống tại gia tên là Anthapiṇḍada đã dâng cúng
một công viên rất đẹp để cho Đức Phật và các môn đệ của Ngài sử dụng.
Khi 80 tuổi, Đức Phật ngã bệnh nặng tại Vaiślỵ, và Ngài biết rằng chỉ còn ba tháng
nữa mình sẽ chết, hay vào cõi Niết bàn. Nguyên nhân trực tiếp của cái chết của Ngài
là một bữa ăn (món thịt heo hay món nấm, chúng ta không thể chắc) do một người thợ
sắt tên là Cunda dâng cho Ngài, khiến Ngài bị kiết lỵ. Ngài qua đời tại một khu rừng
cây nhỏ ở Kuśinagara. Những lời sau cùng của Ngài là vayadhamm saṃkhr,
appamdena sampdetha, "Mọi loài mang xác thể đều sẽ phải hoại diệt; hãy cố ghi nhớ
điều này"
(15)
.
Bảy ngày sau, xác Ngài được hoả táng, và tro cốt của Ngài được phân phối cho các vị
vương công địa phương để đặt trong mười đài kỷ niệm gọi là các Bảo Tháp stpa.
-----*-----
3