định không tham gia vào những hoạt động thiết lập quy chế này, và không chấp nhận
chúng. Việc Purāṇa không bị trách cứ là một bằng chứng cho thấy mọi người coi thái
độ của ông là hợp pháp.
Đại Hội Thứ Hai
Các truyền thống liên quan tới Đại hội thứ hai thì hỗn tạp và mơ hồ. Thực tế có vẻ
như đã có hai cuộc hội nghị cách xa nhau một thời kỳ xấp xỉ bốn mươi năm, và tuy
người ta nhất trí nhìn nhận rằng kết quả chung đã dẫn đến cuộc li khai đầu tiên trong
Tăng Già, giữa phái Sthaviravāda và Mahāsaṅgha, nhưng người ta không hoàn toàn
hiểu rõ được nguyên nhân của cuộc li khai này là gì.
Theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy, Đại hội thứ nhất trong hai Đại hội này đã
diễn ra tại Vaiśālī, khoảng 100 năm sau khi Đức Phật nhập Niết bàn. Ngày nay người
ta biết rằng con số 100 là một con số tròn rất thích hợp để mô tả một thời kỳ dài, và có
lẽ chắc hơn Đại hội này đã diễn ra khoảng 60 năm sau khi Đức Phật nhập Niết bàn,
tức là năm 345 trước CN. Nó liên quan tới lời cáo buộc rằng một Tỳ khưu nào đó ở
Vaiśālī đã cho phép thực hành mười điều không được phép trong cộng đồng của họ,
dẫn tới những vi phạm một số các quy luật nhỏ của Vinaya, hay các luật về hành vi,
như việc sử dụng tiền bạc, ăn sau giờ Ngọ, và không tuân giữ một số luật liên quan tới
sự phân biệt giữa các bậc thụ giới nikāyas. Đại hội được triệu tập, người ta yêu cầu
trưởng lão Sarvagāmin (một môn đệ của Ānanda) tuyên phán quyết có thẩm quyền về
mười điểm vi phạm trên, Ngài đã lên án Chư vị phạm giới, sau đó Đại hội bế mạc.
Hội nghị thứ hai của thời kỳ này, tuy không được ghi lại trong sử sách của Phật giáo
Nguyên thủy như một Đại hội, đã diễn ra tại Pāṭaliputra khoảng 37 năm sau đó, và
liên quan tới những lời giảng dạy của một Tỳ khưu tên là Mahādeva. Tỳ khưu này chủ
trương năm luận đề liên quan tới A La Hán, đó là A La Hán có thể bị cám dỗ, có thể
còn một số điều ngu dốt, có những nghi ngờ, cũng phải học hỏi nơi người khác, và
nhập được Đạo siêu sắc giới bằng một lời cảm thán như "Khổ!" hay cũng có thể lìa xa
Đạo
(53)
. Những luận đề này bị một số người đối lập cho là hạ giá bậc A La Hán. Vua
của Magadha là Mahāpadma Nanda được yêu cầu triệu tập một Đại hội để làm sáng tỏ
lập trường, nhưng vì vua không có uy tín hay thẩm quyền về giáo lý, ông đã quyết
định phân xử bằng cách tính theo số người của mỗi phía, phía nào đông thì được. Vua
thấy số người ủng hộ Mahādeva đông hơn. Phe này tự đặt tên cho mình là
Mahāsaṅgha, "Đại Tăng Giới", còn phe kia tự gọi mình là Sthaviras, "Trưởng lão",
cho mình là trung thành với lời dạy "nguyên thủy" của Đức Phật, và họ tố cáo phe kia
là xuyên tạc lời dạy nguyên thủy này
(54)
.
Các Đại Hội Khác