là A La Hán. Nếu đúng là thế, thì chúng ta có thể hiểu Mahādeva đang cố gắng khẳng
định lại địa vị nguyên thủy của A La Hán nhằm dung hòa khuynh hướng này. Mặt
khác, cũng có thể bản thân Mahādeva là một đồ đệ của lí tưởng Đại Thừa mới về Quả
Phật, và vì vậy ông coi bậc A La Hán như là một sự thành đạt thấp hơn. Bất luận thế
nào, thuật ngữ lokottaravāda trong lịch sử có thể giúp chúng ta hiểu sự phát triển của
ý tưởng về Phật nguyên mẫu trong Đại Thừa.
Một giáo lý mới và có ảnh hưởng nữa của trường phái Mahāsaṅghika là việc mô tả sự
nghiệp Đức Phật như là vị Bồ tát, trước kiếp sống sau cùng của Ngài như là Thích Ca
Cồ Đàm, theo kiểu một tiến trình qua mười giai đoạn hay bhūmis - hơn nữa, như một
con đường mở ra cho những người khác đi theo. Những bhūmis này được khai triển
dài dòng trong Mahāvastu
(75)
, và được lấy lại trong Đại Thừa. Sau cùng, một số trường
phái con của Mahāsaṅghika chủ trương giáo lý dharmaśūnyatā, một lập trường có
tầm quan trọng lớn cả cho Vi diệu pháp (Abhidharma) và cho Đại Thừa
(76)
.
* Trường Phái Sthaviravādin
Trường phái Sthaviravādin đã tạo một ảnh hưởng sâu đậm đối với quan niệm của
chúng ta về Tăng Già nguyên thủy. Đại diện duy nhất của trường phái này (hay của
bất cứ trường phái ngoài Đại Thừa nào) còn tồn tại ngày nay là trường
phái Theravādin của Sri Lanka và Đông Nam Á, đã tự xác định mình là phe duy nhất
li khai với trường phái Mahāsaṅghika ở Đại hội lần thứ hai. Điều này được biểu hiện
qua tên gọi, vì từ Pāli thera tương đương với từ Phạn sthavira, và điều này đã khiến
cho các sử gia phương Tây xưa kia nghĩ rằng hai trường phái này chỉ là một. Nhưng
thực tế không phải vậy, vì vào thời vua Aśoka, trường phái Sthaviravādin đã tự tách
ra thành các trường phái con là Sammitīya, Sarvāstivādin, và Vibhajyavādin. Về sau
trường phái Vibhajyavādin cũng tách thành hai phe, trường phái Mahīśāsika, được lập
ở miền Đông Nam lục địa, và trường phái Theravādin, được lập ở Sri Lanka khi vua
Aśoka phái con của mình là Mahinda đến đây. Một lí do nữa làm cho trường phái
Theravādin trổi vượt là nó đã bảo tồn được kinh điển Phật giáo đầy đủ duy nhất bằng
ngôn ngữ gốc là Pāli, mặc dù chúng ta không rõ đây có phải kinh điển nguyên thủy
của Sthaviravādin hay không.
Dù sao, với một chút ít dè dặt, ta vẫn có thể coi trường phái Theravādin như là đại
diện của trường phái Sthaviravādin nói chung. Hiển nhiên, do xuất xứ của nó, trường
phái Theravādin bảo thủ trong học thuyết và thực hành. Trường phái này coi Đức Phật
như là một con người bình thường (mặc dù có mâu thuẫn với một số điều được nói
đến trong chính kinh điển của nó). Nó chủ trương rằng chỉ có một Bồ tát hiện hành là
Maitreya. Ngài hiện đang ở trên trời Tuṣita, từ đó Ngài sẽ tái sinh làm người khi Phật
pháp đã chấm dứt. Các A La Hán hoàn hảo trong mọi khía cạnh, không thể đảo
ngược, và giống hệt Đức Phật trong những thành đạt của họ. Trong khi có những
trường hợp các môn đệ sống ngoài đời trở thành những A La Hán trong Kinh điển