rằng toàn bộ Tam Tạng có thể bị mất bởi vì có quá ít Tỳ khưu có thể nhớ thuộc lòng
được nó.
Cấu Trúc Của Kinh Tạng (Sūtra Piṭaka)
Có bằng chứng cho thấy việc sắp xếp những bài giảng của Đức Phật được dựa trên
những nguyên tắc văn học, vì hình như từ đầu, Tăng Già đã quyết định kết tập những
bài giảng của Đức Phật và phân chúng thành mười hai thể tài, gọi là aṅgas
(93)
. Nhưng
đây có phải lối sắp xếp được chọn tại Đại hội lần thứ nhất hay không thì chúng ta
không thể biết chắc. Các thể loại bài giảng đó là: khế kinh văn xuôi (sūtra), trùng
tụng (geya), lối phân tích, giải thích (vycarana), loại phúng tụng hay thi kệ (gth), cảm
hứng ngữ hay vô vấn tự thuyết (udna), Phật thuyết như vậy (ityukta), chuyện kiếp
trước (jtaka), vị tằng hữu hay hy hữu (adbhūtadharma), phương quảng tức các bài
giảng đạo mở rộng (vaipulya), quảng thuyết hay nhân duyên tức các bài giảng được
giới hạn trong phạm vi nguyên thủy (nidna), các kỳ tích hay diễn thuyết giải
ngộ (avadna) và luận nghị (upadeśa). Lối phân chia này được tất cả các trường phái
ngoài Đại Thừa ghi nhận trong các sưu tập kinh của họ, và được tiếp tục bởi Đại
Thừa.
Nhưng về sau, một hệ thống phân chia khác đã thay thế hệ thống mười hai aṅgas nói
trên trong các trường phái ngoài Đại Thừa, bao gồm việc phân phối các bài giảng của
Phật thành bốn hoặc năm loại. Lối phân chia này được gọi là Āgamas trong tiếng
Phạn, nghĩa là "điều được truyền lại", hay "truyền thống". Ngược lại, truyền thống
Pāli sử dụng từ Nikāya (không được lẫn với nikāya nghĩa là các cộng đồng Tăng Già
địa phương và các dòng thụ giới). Lần này các nguyên tắc phân phối nội dung là một
sự phối hợp về độ dài ngắn cho hai sưu tập đầu, và về nội dung cho hai sưu tập sau.
Phần thứ nhất là phần Dīrghāgama (Trường Bộ Kinh, Pāli: Dīgh-Nikāya), ở đây các
bài dài nhất được xếp chung với nhau - dīrgha nghĩa là "dài". Bản Pāli gồm 34 bài,
được chia thành 3 đoạn. Đoạn dài nhất là Mahāparinibbāna Sutta, tổng cộng 95 trang,
phần còn lại dài trung bình 30 trang mỗi đoạn. Dīrghāgama của trường phái
Dharmaguptaka gồm 30 Sūtras, còn tồn tại bằng tiếng Trung Hoa.
Phần thứ hai gồm tất cả những kinh còn lại với đủ độ dài ngắn khác nhau và vì vậy
được gọi là Madhyamāgama (Pāli: Majjhima-Nikāya) - nghĩa là "Trung Bộ Kinh tức
tuyển tập các bài kinh có độ dài trung bình". Bản Pāli gồm 152 Suttas. Một
bản Madhyamāgama của trường phái Sarvāstivādin gồm 222 Sūtras, còn tồn tại bằng
tiếng Trung Hoa
(94)
.
Các kinh trong bản Ekottarāgama (Tăng Nhất A-hàm, Pāli: Aṅguttara-Nikāya) tập
hợp thành nhóm theo con số (gồm từ một đến mười một) các đề mục giáo lý được
trình bày trong đó. Các nhóm đề mục này được xếp theo thứ tự lên dần - vì thế có tên