Đi song song với điều này là sự kiện Phật giáo có vẻ như đã trở thành một tôn giáo
dành riêng cho các chuyên viên, đặc biệt các chuyên viên trí thức đại học quan tâm tới
việc phát triển các đại học đã được xây dựng trước đây dưới sự bảo trợ của các vua
của triều đại Guptka và Pāla. Ở đỉnh cao của nó, đại học Nālandā được tài trợ bằng
tiền thuế thập phân của một trăm ngôi làng, và cung cấp việc đào tạo miễn phí cho cả
mười ngàn sinh viên, Phật giáo và không Phật giáo. Trong khi Phật giáo ngày càng
gắn liền với hoạt động tri thức tập trung, tu trì, thì Ấn giáo vẫn duy trì được tính bình
dân, dựa trên đời sống của các làng mạc, và các Tỳ khưu Ấn giáo đi tới từng nhà để
phục vụ những nhu cầu tôn giáo của người đồng đạo. Ngược lại, người Phật giáo
không phải lo lắng về những nhu cầu kinh tế trực tiếp của mình vì có những tài sản
dồi dào đã tích luỹ do của dâng cúng từ những tín đồ hảo tâm và những vị vua bảo trợ
trước đây. Có lẽ họ đã mất tiếp xúc phần nào với văn hóa bình dân, ngưng thu nạp tín
đồ mới, và khép kín trong những cuộc tranh luận triết học tinh vi và những nghi lễ
theo giáo phái Tantra. Ngay cả những Tỳ khưu khổ hạnh của Ấn giáo cũng chỉ là
những con người khất sĩ đơn giản, giống như những người Phật giáo ban đầu, và vì
thế họ không phải lệ thuộc các tổ chức tu viện và sự bảo trợ cần thiết của các vị vua
giống như thân phận của những người Phật giáo. Hình như Ấn giáo đã trải qua một
cuộc hồi sinh nữa trước thời kì bị Hồi giáo xâm lăng, và họ đã bành trướng giáo
phái Viṣṇu ở miền Nam, Siva ở Kashmir, và các triết gia - giáo sư thù nghịch với Phật
giáo như Śaṇkara và Kumārila đi giảng dạy khắp các vùng đồng quê và thu hút được
nhiều tín đồ. Tuy có những dấu hiệu cho thấy sự phân biệt giai cấp đặc trưng của Ấn
giáo đã thâm nhập vào chính Tăng Già Phật giáo (như ở Sri Lanka), nhưng chúng ta
không nên quên rằng Phật giáo đã mặc nhiên phủ nhận giá trị của những phân biệt
giai cấp này bằng cách chấp nhận mọi người thụ giới bất kể thuộc thành phần giai cấp
nào. Sự chống đối này đã được diễn tả trực tiếp trong tác phẩm Vajrasuci của
Aśvaghoṣa, trong tác phẩm này ông xoá bỏ cơ sở của sự phân biệt giai cấp bằng cách
nêu lên những giai thoại bất bình thường trong kinh thánh Ấn giáo.
Sau cùng, ngay cả sự bảo trợ của nhà vua chưa hẳn là điều có lợi. Đại học Nālandā
từng được vua Harṣa (606-647) bảo trợ rất mạnh, nhưng sau đã bị triều đại Pāla làm
ngơ, ngược lại triều đại này quay sang bảo trợ các trường đại học do chính triều đại
này thiết lập - Vikramaśīla và Odantapurā. Ngay cả các việc làm của các vua cũng
không nhất thiết đáng tin, vì không những họ dễ dàng bỏ đạo mà còn có thể bị mất
chức quyền và thay thế bởi những vị vua khác thù nghịch với Phật pháp.
Khởi đầu bước suy tàn của Phật giáo Ấn Độ là vào thế kỷ VIII, với những cuộc tấn
công đầu tiên của Hồi giáo vào Ấn Độ, như cuộc phá huỷ thành phố và đại học Phật
giáo ở Valabhī. Những cuộc tấn công này đã bị các lãnh chúa địa phương Ấn Độ chặn
đứng, khiến quân xâm lăng Thổ Nhĩ Kỳ chỉ có thể tiến quân dần dần vào Ấn Độ trong
bốn thế kỷ sau, khi các vương quốc lần lượt rơi vào tay họ. Vì các vương công địa
phương tại Ấn Độ không đạt được liên minh hiệu quả nào chống lại mối đe dọa của