Chỉ có Đại Nguyên Thủ mới có thể dẫn ta tiến vào Tịnh Thổ.
Như vậy vô luận thế nào, ta sẽ không thể giết Đại Nguyên Thủ trước khi
tiến nhập Tịnh Thổ.
Cách nghĩ này, khiến ta vô cùng căm ghét Dự Ngôn Thư kia.
Con người vốn không nên biết đến sự tồn tại của vận mệnh, ta hiện tại
chính là nạn nhân đàng thương đó.
Đặc biệt là câu “Đau thương vô tận”, càng khiến ta thêm sợ hãi, điều gì
có thể khiến ta đau thương đây?
Trong đầu lại trào lên ý nghĩ về “Thải Nhu Khâu”, chỗ mà Thải Nhu
muốn dùng làm nơi an nghỉ cuối cùng của mình, ý nghĩ cường liệt này
khiến ta rên lên sợ hãi.
Thải Nhu nói: “Đại Kiếm Sư! Sắc mặt ngài khó coi quá.”
Ta miễn cưỡng cười đáp: “Có thể là do hơi mệt một chút!” rồi quay sang
Niên Gia nói: “Tin ta đi, khi bọn sa đạo tới, ta nhất định sẽ cho bọn chúng
nếm mùi đau khổ.”
Niêng Gia gật đầu lia lịa nói: “Điểm này ta hoàn toàn đồng ý, có ngài ở
đây, hơn nữa ta còn có chút muốn gặp bọn sa đạo xuất quỷ nhập thần đó
một lần, nhưng lại nghĩ Tịnh Thổ đang ở trong hiểm cảnh, nên không dám
lần chần nhiều, vậy để bọn khốn đó sống thêm một chút.”
Gã Niên Gia này đã hoàn toàn bái phục kiếm thuật của ta, bởi trong lòng
gã ta chính là Thánh Kiếm Kỵ Sĩ như trong lời tiên đoán của những tiền bối
Tịnh Thổ.
Ta hận những lời tiên đoán đó, hận Mã Tổ vì sao lại tiết lộ thiên cơ.
Hai mươi ngày sau, bọn ta trong tình trạng sức tàn lực kiệt, thiếu nước,
thiếu lương thực, đến được giếng nước đầu tiên cách “Mạc Trung Hồ” bốn
mươi dặm về phía bắc, giữa hàng ngàn cồn cát vàng này, khiến người ta
thật khó mà tin được lại có một tiểu thảo nguyên vuông vắn, rộng tầm bốn
dặm, rải rác lại còn có cây cối mọc lên.
Đi đến đây địa thế bắt đầu nhấp nhô, khiến khiến những hạt cát không
vật gì dấu được cũng khó mà tận tình tàn phá.
Bốn phía khu vực này là những viên sa thạch lổn nhổn, xa xa là một gò
đất nhỏ bên trên có những tảng đá lớn chồng lên giống như đỉnh một chiếc