Ôi! Duy có nghiêm kính có thể thờ được người trên. Nhân từ có thể tiếp
được kẻ dưới. Hậu siêng năng thì người không dám biếng lười. Hậu kiệm
ước thì người không dám xa xỉ. Hậu nên nghĩ về điều ấy, để chịu phúc của
nhà tôn miếu, để được tốt cho con cháu sau.
Năm thứ 3 (1804) truy tặng bốn đời: Cao tổ là Tống Phúc Đức làm Cai cơ,
tước Hầu; Tằng tổ là Tống Phúc Dương làm Chưởng cơ, tước Quận công;
ông là Tống Phúc Thành làm Chưởng doanh, tước Quận công; cha là Tống
Phúc Khuông làm Thái bảo, tước Quốc công, lập đền ở Phú Xuân, gọi là
đền Tống công. (Năm Minh Mạng thứ 13, đổi phong là Quy quốc công, đền
Tống công sau dời đến Kim Long, đổi tên là đền Quy quốc công).
Năm thứ 5 (1806) mùa thu, tháng 7, ngày Kỷ Mùi, lập làm Hoàng hậu.
Sách văn rằng: Trộm nghĩ thế của thuần khôn, sánh với kiền nguyên, bắt
đầu vương hóa, gây ở nội trị: cùng tôn cùng quý đối với lễ là trinh. Nghĩ
đến vương hậu họ Tống: tiếng nghĩa rộng khắp, nết tốt đầy đủ: giữ việc
trong cung cho Trẫm, chốn nấu ăn được nghiêm lặng. Lúc trước trong khi
xiêu giạt, trẫm lo nghĩ khó nhọc ở ngoài, Hậu siêng năng giúp đỡ ở trong;
gian nan cùng giúp lẫn nhau, hiểm bằng nếm đủ tất cả; khoan thai khép nép
rất là kính, tiến dâng ngon ngọt hết đạo hiếu; ơn huệ để cho con cháu, đức
trạch khắp tới quân nhưng; ôn hòa kính cẩn kiệm ước đã giúp đỡ ta, đức tốt
như ngọc hành ngọc vũ làm khuôn phép trong cung cấm, thói hay ở thơ
Quang thủ đem giáo hóa cả thiên hạ, tu tề trị bình, cũng nhờ ở đấy. Trẫm
mới hợp lời đình thần tâu xin, đã chính vì hoàng đế; nghĩ tới ngôi hậu ở
trong cùng trẫm cùng trị, chúc ở trong cung; tốt ở triều đình là gốc. Đã
dâng lời tâu xin chỉ Hoàng thái hậu, sai Chưởng thần vũ quân kiêm coi
quân thần sách là Kiêm quận công Phạm Văn Nhân mang cờ tiết, Hộ bộ
thượng thư. Tích thiện hầu là Nguyễn Kỳ Kế làm phó, mang sách vàng ấn
vàng, tấn phong làm Hoàng hậu5; cho long trọng vị hiệu. Hậu nên nhận lấy
danh hiệu cao quý ấy, sửa sang chính sự ở trong cung, kính cẩn việc thờ
phụng ở nhà tôn miếu, làm khuôn phép người mẹ cho thần dân, kính siêng