nay thuộc phủ Thừa Thiên). Cha là Phúc Kiêm, tặng Thiếu úy, Quận công,
tên thụy là Đôn Hậu.
Ông trước lấy con gái họ Phùng, sinh ra Hiếu Khang Hoàng hậu. Làm quan
ở triều Thế Tông (Hiếu vũ hoàng đế), đến Chính doanh cai cơ, rồi chết,
không có con thừa tự. Năm Gia Long thứ 2, truy tặng là Tán trị công thần,
Trung quân đô đốc phủ chưởng phủ sự, Thái bảo, Quốc công, tên thụy là
Chính Trực. Phùng thị cũng được gọi là Quốc thái phu nhân, lập đền thờ ở
Phú Xuân, gọi là đền Dục Đức. Năm Minh Mạng thứ 13, đổi tặng là đặc
tiến Tráng vũ đại tướng quân, Trung quân đô thống phủ chưởng phủ sự,
Thái bảo, vẫn tên thụy là Chính Trục, phong là Diễn quốc công. Phùng thị
cũng đổi phong là Diễn quốc nhất phẩm phu nhân.
Tống Phúc Khuông: Tiên tổ là người ở quý huyện tỉnh Thanh Hóa, lúc
trước theo Thái Tổ (44) vào trấn miền Nam, nhận tịch ở phủ Thừa Thiên.
Cha là Thành, làm quan triều Thế Tông, làm đến Nội thủy chưởng cơ kiêm
Cung bộ, Chưởng sử sự, tặng Chưởng doanh, Quận công, tên thụy là Đôn
Trực.
Ông làm nên vì tập ấm, quan đến Chưởng doanh. Trước đây lấy Lê Thị là
người ở Quảng Nam, sinh ra Thừa Thiên Cao Hoàng hậu. Ông lại lấy con
gái thứ 6 của Thế Tông là công chúa Ngọc Cư, sinh con là Phúc Lương.
Năm Ấ
t Mùi (1775), Duệ Tông vào Gia Định, ông mang gia quyến đi theo. Giặc
Tây Sơn vào cướp, Duệ Tông mất, Thế Tổ dấy quân ở Long Xuyên, ông
cùng bọn Chưởng doanh là Tống Phúc Lương, đem quân hội đánh chức
điều khiển của giặc là Hòa ở Long Hồ, cả đánh phá được, tiến lấy được Sài
Gòn.
Năm Mậu Tuất (1778) cùng bọn Đỗ Thành Nhân tôn Thế Tổ làm Đại
nguyên súy, coi việc trong nước. Năm Canh Tý (1780) Thế Tổ lên ngôi
vương, bàn công những người giúp đỡ, cho ông làm Ngoại tả chưởng