Lưỡng triều cố mệnh ích khiêm cung.
Tình ân bổ cổn ưng vong bệnh.
Hiếu toại tu phần vị khuyến trung.
Liễu mạch xuân phong trấn bất động,
Vân quan dạ nguyệt mộng hoàn thông.
Nhi kim ngư, thủy vưu tương đắc,
Trú cẩm hà tu hiệu Nguy công.
Dịch nghĩa:
Từ xưa, người làm tể tướng, đức nghiệp long trọng.
Như khanh nhận chiếu thư để lại giúp đỡ vua nối đến hai triều mà càng
khiêm nhường.
Có lòng giúp vua, nên quên cả ốm mệt.
Được thỏa lòng hiếu về sửa phần mộ là để khuyên người giữ lòng trung.
Dặm liễu gió xuân không hề có chút bụi trần.
Ải Vân đêm trăng vẫn mơ màng giấc mộng.
Đến nay vua tôi như cá nước tương đắc với nhau,
Cần gì phải bắt chước Hàn Kỳ ngày xưa làm đường Trú Cẩm (196) làm gì.
Phiên âm>
Phong tống bồ luân (197) cựu lộ trường
Sơn đà thủy khoát bội tương vương.
Nhất phong từ khuyết ngôn hòa lệ.
Lục thập ninh gia phát tự sương.
Hóa hợp phần du giai tiễn hiếu,
Vinh chiêm toàn nhưỡng, túc tặng quang.
Quỳ, Long (198) bất nhập hoàn xương hạp,
Tiền tịch trùng thinh luận điển chương.
Dịch nghĩa:
Gió đưa xe bổ rong ruổi lối cũ dặm trường,
Non cao song thẳm trông ngóng bội phần,
Một phong thơ từ biệt kinh sư lời nói hòa lăn nước mắt.
Sáu mươi tuổi về thăm nhà tóc bạc như sương,
Giáo hóa khắp quê hương ai cũng hiếu thuận,