chiếm cứ Trấn Tây, người Lạp bị khổ mãi, quân ta nhiều lần đến đánh,
người Xiêm thường thường thua đau, người Lạp vẫn nghĩ để phản lại
Xiêm. Thổ mục xứ ấy nhiều lần đệ điệp tình nguyện làm nội ứng xin quân
ta tiếp viện đánh dẹp. Tri Phương cùng Doãn Uẩn hội bàn rằng: nay một
dải Ba Nam, Kỳ Tô, nhiều người đã lòng thành quy thuận. Nếu không ứng
tiếp cho chúng, thì sợ tuyệt một con đường quy thuận sau này, nên lập tức
chia quân làm hai đạo tiến đánh. Bấy giờ, Sách Sô đã lấy được giặc Xiêm
chỉ còn dựa vào đồn Thiết Thằng làm kế cố chết để giữ. Tri Phương bàn
phải cần đánh kíp, bèn hợp quân tiến đánh, lấy được đồn ấy. Rồi thừa thắng
đến thẳng thành Nam Vang thì giặc trốn đi rồi. Tin thắng trận tâu lên. Vua
thấy tướng sĩ đồng tâm dùng mệnh, phá tan sào huyệt của giặc, nên phải gia
ơn ngoài lệ, để đền công lao. Thưởng Tri Phương gia hàm Hiệp biện, quân
công 1 cấp, kỉ lục 3 thứ và ngọc quí, kim tiền, kim thánh, nhẫn vàng mỗi
thứ đều 1 cái. Sau đó, Phương lại tiến quân đến Vĩnh Long, giặc ở 2 bên bờ
sông Chánh dựa nơi rừng bắn ra, quan quân không thể tiến được. Tri
Phương đốc quân các đạo bỏ thuyền lên bộ tung quân đánh dữ vào, giặc tan
chạy.
Vua cho là công việc giữ an toàn về sau thì việc phủ dụ yên họp là cốt yếu
hơn hết. Thuận cho Tri Phương thăng Thự Hiệp biện Đại học sĩ, vẫn sung
Khâm sai đại thần trù biện việc vỗ yên biên giới Trấn Tây. Sai Trung sứ đi
kíp đến ban cho Phương áo rét, nhân bảo ý là cho áo cừu vả cởi áo cho của
người đời xưa.
Vua một hôm bàn đến việc Trấn Tây, bảo đại thần ban võ rằng: gần đây có
người ở quân thứ về nói là Nguyễn Tri Phương cùng giặc đối trận đánh
nhau, đạn bắn như mưa. Tì tướng xin Phương hạ lọng, để khỏi bị giặc biết.
Phương quát mắng, bắt giương thêm hai lọng nữa. Bấy giờ khí của quân
lính hăng lên gấp trăm phần, nên sau được thành công. Nếu người nhát sợ
đương vào lúc ấy há chẳng mất vía ư? Mùa đông năm ấy, Phương tiến quân
đến sát thành Ô Đông. Giặc ở trong thành cố chết để giữ cầm cự nhau hồi
lâu. Chất Tri sai người đến 2, 3 lần xin hoãn quân. Tri Phương cùng Doãn
Uẩn bàn nhau báo là: ở đây tuy thành trơ trọi, mà địa thế um tùm, còn
nhiều lũy trại, Chất Tri và tên Giun nương tựa lẫn nhau, tất không chịu bỏ