An Giang yên nghỉ. Cùng các quan ở quân thứ hội hàm làm tập để tấu cáo
việc đánh dẹp đã hoàn thành.
Ngày tháng 5, Phương đem quân (thắng trận) về Kinh. Vua thấy các tướng
đi đánh mạn Tây khó nhọc mãi ở ngoài, sai Nội Các Thị vệ cử 1 viên dự
trước đón tiếp ở Nam Đình và truyền chỉ úy lạo. Khi đến Kinh, vua cho gọi
Phương vào tiện điện, trước hết thưởng cho Phương chiếc áo mặc mát bằng
lụa màu đỏ và cái quạt của vua dùng, áo đề bài thơ đánh dẹp mạn Tây đã
xong để tỏ ra yêu quý đặc biệt, thơ rằng:
Phiên âm:
Giải Y, quốc sủng biên cương định,
Tứ phiến, hoàng phong hóa vũ luân.
Thâm niệm tuyên lao hà dĩ đáp,
Đan như vạn tải kỉ nguyên huân.
Dịch nghĩa:
Cởi áo ban cho là ơn của nước để đền công dẹp yên biên cương.
Cho quạt là muốn cho gió mát của nhà vua khắp cả trong cõi.
Nghĩ đến công khó nhọc lấy gì để báo đáp,
Thư san ghi chép công đầu đến mãi muôn đời.
Ngày hôm sau, vua ngự điện Cần Chính, cho gọi Vũ Văn Giải, Nguyễn Tri
Phương đến, thân hành rót rượu đưa cho và úy lạo hồi lâu. Lại dụ rằng:
Khâm sai đại thần Nguyễn Tri Phương, nhận trọng trách coi một địa
phương, vỗ về dẹp yên thành Trấn Tây, thực là tài mang nặng đi xa, ban
cho Phương chén bằng ngọc tốt và hình con lạc đà bằng vàng mỗi thứ đều 1
cái. Để tỏ là Phương có trí dũng phục được Ba đà (phong tục của nước
Châu Lạc, gọi chủ nhân làm Ba đà). Lại cho Phương bài thơ rằng:
Phiên âm:
Uy thanh hùng hổ hám, Trí dũng phục Ba đà,
Xuất mã công kham lục, Phi hùng dũng khả gia.
Dịch nghĩa:
Oai phong như con hổ đực gào, Trí dũng phục được chủ nhân nước Xiêm
Ra ngựa đánh giặc công nên chép, Mạnh phú con gấu hay đáng khen ngợi.