(80) Hán Vũ Đế lập Phật Lăng (tức Chiêu đê) làm thái tử, sai Hoắc Quang
giúp thái tử bảo người vẽ bức tranh Chu Công giúp Thành Vương để cho
Hoắc Quang
(81) Tức là Nguyên Văn Tường, Tôn Thất Thuyết.
(82) sau lên ngôi lấy niên hiệu là Hiệp Hòa.
(83) Tức Tống Thái Tổ Hoàng Hậu.
(84) Phụ nữ làm thầy dạy ở trong cung gọi là nữ sư.
(85) Phi bách: một lối chữ viết nét t bên ngoài lấm tấm đen.
(86) Bát phân: một lối chữ viết dẹt, nửa giống như chữ triện, nửa giống như
chữ lệ.
(87) Trần Tư Vương: tức là Tào Thực, thơ hay.
(88) Cánh Lăng Vương: tức là Chung Tinh, thời Minh, thơ hay.
(89) Lỗ Trọng Liên người nước Tề, thời chiến quốc. sang chơi nước Triệu,
khi ấy nước Tần đánh nước Triệu. nước Triệu nguy cấp, nước Triệu muốn
tôn nước Tần làm đế, Trọng Liên không nghe, sau quân nước Tần rút lui,
nước Triệu muốn phong tước cho Trọng Liên. Trọng Liên trốn ra biển
Đông không nhận.
(90) và (91) Hà Giang Vương tên là Đức, con Hán Cảnh Đế, Đông Bình
Vương tên là Thương, con Hán Quang Vũ.
(92) 2 câu thơ này chưa hiểu rõ ý, xin dịch tạm.
(93) Lý Nhĩ: Lão Đam tức là Lão tử.
(94) Lão Bành: tức là Bành tổ, cũng có thuyết nói: Lão là Lão tử, Bành là
Bành tổ sống 800 tuổi.
(95) Thích Ca: tên Phật, sống 80 tuổi.
(96) Trần Tư Vương: tức là Tào Thực.
(97) Thân Kỳ: chưa rõ điển.
(98) Xương Lê: là Hàn Dũ, Công Bộ là Đỗ Phủ. Hà Giang, Trần Tư, Xương
Lê. Công Bộ, 4 người văn thơ đều hay cả.
(99) Hán Minh đế hỏi Đông Bình Vương (em Minh Đế) ở nhà làm việc gì
vui. Đông Bình Vương trả lời làm điều thiện rất vui, Minh Đế trao cho 19
quả ấn liệt hầu, con Đông Bình Vương 5 tuổi biết lạy, đều cho được đeo ấn
ấy cả.