ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN - TẬP 4 - Trang 303

Hy Tăng trẻ tuổi, làm quan chính trực dám nói, trên được vua hiểu biết, lấy
thành trực đối đãi như bạn bè, một sụ tri ngộ hiếm có ở đời, học giới lấy
làm ca tụng.

Phạm Thanh Thục

Tự là Thuần Chi, người Duy Xuyên, Quảng Nam, tính thanh liêm ngay
thẳng. Đỗ hương tiến Tự Đức năm thứ 17 (1864). Bắt đầu bổ Huấn đạo
Duy Xuyên rồi thăng Tu soạn lĩnh Tri huyện Hương Trà có tiếng tốt. Vào
làm Giám sát ngự sử chuyển sang Viên ngoại lang Lại bộ rồi sau thự Lang
trung. Năm thứ 36 (1883), đổi bổ Thị độc học sĩ lĩnh Án sát sứ Quảng Trị,
làm việc công bằng được dân yêu, rồi đổi về biện lý Binh bộ kiêm Chưởng
Đại lý tự ấn triện.

Kiến Phúc năm đầu (1884) vua dụ rằng: "Chức Kinh triệu từ xưa vẫn trọng,
cũng vì là việc khó. Gần đây bổ sung ít thấy được người giỏi". Bèn cho
Thanh Thục lĩnh Thừa Thiên phủ doãn. Sau đổi đi Bố chính sứ Bình Thuận
chưa được bao lâu thời ốm chết năm 53 tuổi. Anh là Thanh Châu, Thanh
Nhã, em là Thanh Nghiêm đều có tiếng hay chữ. Thanh Châu đỗ hương
tiến Thiệu Trị năm đầu (1841), Thanh Nhã phó bảng Tự Đức năm thứ 4
(1851), đều làm đến Tri huyện. Thanh Nghiêm đỗ hương tiến Tự Đức năm
thứ 26 (1873) chưa kịp làm quan. Con Nhã là Thanh Lượng, con Nghiêm là
Thanh Túc cùng đỗ kỳ

Hà Văn Quan

Tự là Tử Thạch, người Phong Lộc, Quảng Bình. Tằng tổ là Loan làm kỵ úy
triều Lê. Tổ 3 đời là Thước, làm nội thị buổi quốc sơ. Cha là Nhàn, đỗ tú tài
khoa Tân tỵ niên hiệu Minh Mạng.

Văn Quan, lúc trẻ có tiếng hay chữ. Tự Đức năm thứ 18 (1865) thi Hội đỗ
phó bảng. Do chân Nội các kiểm thảo bồ Đồng tri lĩnh huyện Gia Lộc rồi
chuyển đi phủ Bình Giang. Quan tỉnh thấy tâm địa, công việc khá, làm sớ

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.