Nay vị Bồ-tát thọ giới, các Kusalamùlas (căn bản thiện) càng ngày càng
trong sạch. Trong 4 Nhiếp pháp, vị này phát triển Samànàthatà (Ðồng sự),
và thực hành Vìryapàranimità (tinh tấn Ba-la-mật) của 10 Ba-la-mật.
Sudubjàya hay Satyapratisamyuktàdhiprajnàvihàra (Nan thắng địa hay đế
tương ứng thắng tuệ trú)
Vị Bồ-tát đi từ Ðịa thứ tư đến Ðịa thứ năm bằng cách tu tập
cittàsayavisuddhisamatà (thanh tịnh bình đẳng tâm nguyện), liên hệ đến 10
vấn đề như sau: giáo lý của chư Phật quá khứ, hiện tại và tương lai, giới,
định, đoạn trừ tà kiến và nghi, hiểu hết chánh đạo và tà đạo, thực hành các
phẩm Bồ đ? giác chi và bổn phận nâng cao đời sống giới hạnh của chúng
sanh.
Trong Ðịa này, do sự thực hành liên tục các pháp trợ đạo khác, sự chứng
đắc một tâm ý còn thanh tịnh hơn sự giác ngộ chơn như tánh (tathàtva) của
mọi pháp vàsự tăng trưởng nguyện lực của mình, lòng từ bi v.v..., vị Bồ-tát
hiểu lý Tứ đế và trở thành tinh luyện trong sự hiểu biết về:
- Samvrti (Tục đế), nhờ lo lắng đến sự ao ước mong mỏi của các chúng
sanh khác;
- Paramàrtha (Chơn đế), nhờ chỉ thực hiện một con đường (Màrga=Ðạo);
- Sự thật về tướng (laksana), nhờ chứng được những đặc tánh di động và
đặc biệt của sự vật (svasàmànyalaksana);
- Sự thật về phân tích (vibhàya), nhờ biết sự chia chẻ các pháp;
- Sự thật về đoạn trừ (nistìrana), nhờ biết điều kiện các uẩn, xứ, v.v...
- Sự thật về sự vật (vastu), nhờ để thân tâm chịu đựng mọi phiền não;
- Sự thật về sanh khởi (prabhava), nhờ các thọ sanh;