165
Tân Đường thư, Cựu Đường thư, Thông giám đều chép là Tào Huyền
Tĩnh.
166
Tân Đường thư - Bản kỷ chép là Mai Thúc Loan; Cựu Đường thư,
Dương Tư Húc truyện chép là Mai Lập Thành ---- Thông giám chép là Mai
Thúc Yên.
167
CMTB4, 21b theo Tân Đường Thư, Dương Tư Húc truyện ghi số quân
của Mai Thúc Loan là 40 vạn.
168
CMTB4, 21b theo Đường Thư; Dương Tư Húc truyện chép là Quang
Sở Khách. Hai chữ Quang _____ và Nguyên _____ dễ viết nhầm.
169
Côn Lôn: thư tịch Trung Quốc từ thế kỷ IV, nhất là từ thời Đường,
thường dùng tên Côn Lôn để chỉ một số cư dân trong vùng Nam Hải, tức
vùng Đông Nam Á ngày nay. Tuệ Lâm trong Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa
(q.61), soạn năm 817, nói rằng "Côn Lôn .... cũng gọi là Cốt Luân, là người
Di ở các đảo châu Nam Hải, rất đen .... chủng loại có nhiều". Cựu Đường
Thư, Nam Man truyện cùng chép: "Từ Lâm Ấp trở về phía nam, đều tóc
quăn, da đen, gọi chung là Côn Lôn". Như vậy Côn Lôn là một sự phiếm
chỉ, khó có thể xác định đó là cư dân một nơi nào ở Đông Nam Á hiện nay.
170
Chà Bà: phiên âm tên đảo Java.
171
Theo Nguyên Hòa quận huyện chí (q.38), năm này (767) Trương Bá
Nghi cho đắp La Thành ở vị trí mới, cách sông Tô Lịch khoảng 200 thước.
172
Cương mục TB4 chép người tiết phụ này họ Kim, hẳn là đã dựa vào
Tân Đường thư q.205 Liệt nữ truyện (Kim tiết phụ). Toàn thư đã chép
nhầm chữ Kim ra chữ Toàn.
173
Xá: 30 dặm.