410 Thảng Do: tên châu thời Lý, nơi Nùng Trí Cao làm phản lập ra nước
Đại Lịch, ở về phần đất tỉnh Cao Bằng ngày nay (theo Độc sử phương dư
kỷ yếu; CMCB, 43a). Như vậy, điều ngờ ghi trong câu tiếp theo của nguyên
chú không đúng.
411 Trại Định Phiên: trại định cư của người Phiên chỉ các tù binh Chiêm
Thành.
412 Thất Nguyên: tên châu thời Lý, nay là huyện Tràng Định, tỉnh Lạng
Sơn.
413 Văn Châu: tên châu thời Lý, nay là đất huyện Văn Quan và một đất
huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn.
414 Dực Thánh Vương: xem chú thích tr.???; Vũ Đức Vương: chưa rõ, từ
trên đến đây chưa thấy nói đến Vũ Đức Vương.
415 Trưởng Tôn Vô Kỵ và Uất Trì Kính Đức giết hai anh của Lý Thế Dân
là Kiến Thành và Nguyên Cát để giữ ngôi vua cho Thế Dân (Đường Thái
Tông). Chu Công Đán giết em là Quản Thúc và đày một em khác là Thái
Thúc để giữ ngôi vua cho cháu là Thành Vương.
416 Băng Sơn: theo (CMCB2, 28b) là xã Dương Sơn, nay thuộc huyện
Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
417 Nguyên văn là "Quan địa".
418 Vi Tử: tên là Khải, anh của vua Trụ nhà Thương, Trụ dâm loạn, Vi Tử
nhiều lần khuyên can, bị Trụ đuổi đi.
419 Dương Quảng là con thứ của Tùy Văn Đế, đáng không được lập làm
thái tử, nhưng vì hoàng thái tử là Dương Dũng tính nết kiêu xa. Văn Đế
ghét. Quảng biết ý, vờ tỏ ra có đức hạnh để chiếm lòng yêu của Văn Đế,
quả nhiên Văn Đế bỏ Dũng, lập Quảng làm thái tử. Sau đó Văn Đế hối,
muốn sửa lại, Quảng bèn giết cả Văn Đế và Dũng để làm vua.
420 Ba phu nhân nói đây là Cảm Thánh, Nhật Phong, Phụng Thánh, đều là
vợ của Lý Thần Tông. Trước Thần Tông đã cho Thiên Lộc làm hoàng thái
tử, đến khi Thần Tông ốm nặng, ba phu nhân đến xin đổi lập Thiên Tộ làm
thái tử (Xem BK3, 42a). Tham tri chính sự Từ Văn Thông nhận lời giúp ba
phu nhân, nhưng cầm bút chờ Thần Tông đổi ý chứ không tự ý sửa di chiếu
(Cũng xem BK2, 42a).