Chiêu Hoàng bèn trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế. Đổi
niên hiệu là Kiến [34b] trung năm thứ 1, đại xá thiên hạ, xưng là Thiện
Hoàng
716
, sau đổi là Văn Hoàng. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Khải Thiên Lập
Cực Chí Nhân Chương Hiếu Hoàng Đế. Phong Trần Thủ Độ làm Quốc
thượng phụ, nắm giữ mọi việc cai trị trong nước. Thủ Độ nói: "Hiện nay
giặc cướp đều nổi, họa loạn ngày tăng. Đoàn Thựng giữ mạn đông, Nguyễn
Nộn giữ mạn bắc, các châu Quảng Oai, Đại Viễn
717
cũng chưa dẹp yên.
Nhà Lý suy yếu, thế nước nghiêng nguy, nữ chúa Chiêu Hoàng không gánh
vác nổi, mới uỷ thác cho nhị lang [Chàng Hai]. Nhưng Nhị lang chưa am
hiểu việc nước, chính sự nhiều chổ thiếu sót, vận nước mới mở, lòng dân
chưa phục, mối họa không phải là nhỏ. Ta tuy là chú nhưng không biết chữ
nghĩa gì, còn phải rong ruổi đông tây để chống giặc cướp, không gì bằng
mời thánh phụ làm thượng hoàng tạm coi việc nước, một hai năm sau thiên
hạ nhất thống, lại giao quyền chính cho Nhị lang". Các quan đều cho là
phải, mời thánh phụ Trần Thừa nhiếp chính.
[35a] Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: "Đến thời Huệ Tông, cái độc hại cho thiên
hạ đã ăn sâu lắm, mà vua không phải người giỏi giang cứng cáp, bề tôi giúp
nước thì nhu nhược hèn kém, muốn chữa cái độc đã sâu thì làm thế nào
được. Huống chi vua lại bị chứng hiểm, chữa không khỏi, lại không có con
trai để nối nghiệp lớn, thế là điểm nguy vong đã hiện ra rồi. Tục truyền
rằng Lý [Thái] Tổ khi mới được thiên hạ, xa giá về Cổ Pháp ngự chơi chùa
ở hương Phù Đổng, có thần nhân đề thơ ở cột chùa rằng: "Nhất bất công
đức thủy, Tuỳ duyên hoa thế gian. Quang quang trùng chiếu chúc. Một ảnh
nhật đăng san". [Một bát nước công đức [của Phật], theo duyên sinh hoá ở
thế gian. Sáng rực hai lần đuốc rọi, mặt trời gác núi là hết bóng]. Sư chùa là
vạn hạnh đem bài thơ ấy dâng lên. Lý Thái Tổ xem xong rồi nói: "Việc của
thần nhân thì không thể hiểu được". Người đời truyền tụng, không ai biết
thơ ấy nói thế nào. Đến khi nhà Lý mất, mới cho bài thi8 ấy là nghiệm. Vì
từ đời Huệ Tông trở lên đến Thái Tổ là tam đời mà Huệ Tông [35b] tên là
Sảm, tức là mặt trời gác núi, hết bóng
718
. Thế thì nhà Lý được nước là tự
trời, mất nước cũng là tự trời vậy.