Trở lên triều Lý, 9 vua, từ Thái Tổ năm canh Tuất [1010] đến Chiêu Hoàng
năm Ất Dậu [1225], cộng 216 năm.
chú thích:
620 Việt Sử Lược chép năm Kỷ Mùi (1139) là niên hiệu Thiệu Minh thứ 3.
Sở dĩ có sự chênh lệch đó, có lẽ là do việc ghi năm mất của Lý Thần Tông.
Việt Sử Lược chép Thần Tông chết tháng 9 năm Đinh Tỵ (1137). Toàn Thư
chép Thần Tông chết ngày 26 tháng 9 năm Mậu Ngọ (1138). Đến điều chép
về năm Tân Dậu (1141) thì không có sự khác biệt ấy: cả hai tài liệu đều
chép Tân Dậu (1141) là niên hiệu Đại Định thứ 2.
621 Theo Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ, niên hiệu Thiệu Hưng thứ 9
(1139) đời Tống, Quảng Tây suý ty nói: "Vua Nhân Tông nhà Lý có người
con của cung thiếp sinh ra, vua không nhận. Khi Lý Thần Tông lên ngôi,
người con ấy chạy sang nước Đại Lý, đổi họ là Triệu, tên là Trí Chi, tự
xưng là Nam Bình Vương. Khi Thần Tông mất, [Trí Chi] bèn trở về tranh
ngôi với Anh Tông, xin mượn quân của nhà Tống. Quan tỉnh Quảng Tây
đem việc ấy tâu lên, vua Tống từ chối". Vậy có lẽ Trí Chi và Thân Lợi chỉ
là một người, khi trần tình để xin viện binh của nhà Tống thì nói dối [là con
Nhân Tông] để lừa nhà Tống.
622 Thái Nguyên: tên châu thời Lý, tức đất tỉnh Bắc Thái ngày nay.
623 Châu Tây Nông: nay là đất huyện Phú Bình, tỉnh Bắc Thái.
624 Châu Hạ Nông: miền Thượng Nông và Hạ Nông huyện Bạch Thông,
tỉnh Bắc Thái. Như vậy châu Lục Lệnh và châu Thượng Nguyên ở vào
khoảng giữa huyện Phú Bình và huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Thái.
625 Lưu Vũ Nhĩ, Cương mục chép là Lưu Vũ Xứng (CMCB4,25a).
626 Sông Bác Đà: chưa rõ ở đâu, nhưng chắc chỉ là một đoạn sông Cầu,
trong vùng đất các huyện Phú Lương, Bạch Thông ngày nay. Phải chăng là
đoạn sông ở vùng Bắc Thắm, chợ mới?
627 Bác Nhự, Bồ Đinh: chưa rõ ở đâu, nhưng hẳn ở cạnh khúc sông Cầu từ
Chợ Mới đến thị xã Bắc Cạn.
628 Tuyên Hóa: nay là đất huyện Định Hóa, tỉnh Bắc Thái.
629 Cảm Hóa: nay là đất huyện Ngân Sơn, Na Rì và một phần phía Bắc
huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Thái.