Mùa đông, tháng 11, ngày 11, táng [Minh Tông] ở Mục Lăng
1089
, vì câu nệ
ngày giờ nên để chậm.
Từ năm Ất Mùi [1355] đến năm nay [Đinh Dậu, 1357], trong 2 năm, một
thăng gạo trị giá 1 tiền.
Mậu Tuất, [Đại Trị] năm thứ 1[1358], (Nguyên Chí Chính năm thứ 18).
Mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, dổi niên hiệu. Đại xá.
Truy [22b] tặng Quốc phụ thượng tể Quốc Chẩn làm Đại Vương.
Từ tháng 3 đến tháng 7 mùa thu, hạn hán, sạu cắn lúa, cá chết nhiều.
Mùa thu, tháng 8, xuống chiếu khuyến khích nhà giàu ở các lộ bỏ thóc ra
chẩn cấp dân nghèo. Các quan ở địa phương tính xem số thóc bỏ ra là bao
nhiêu trả lại bằng tiền.
Lấy Phạm Sư mạnh là Nhập nội hành khiển tri Khu mật viện sự.
Ngô bệ lại đem quân tụ họp ở núi Yên Phụ, dựng cờ lớn ở trên núi, tiếm
sưng vị hiệu, yết bảng nói cứu giúp dân nghèo.Từ Thiên Liêu
1090
đến Chí
Linh. Bệ chiếm giữ cả.
Mùa đông, tháng 11, xuống chiếu cho An phủ sứ các lộ đem quân các đội
phong đoàn đi bắt giặc cướp.
Kỷ Hợi, [Đại Trị], năm thứ 2 [1359], (Nguyên Chí Chính năm thứ 19). Mùa
xuân tháng giêng, nhà Minh sai sứ sang thông hiếu.
Bấy giờ, vua Minh cầm cự với Trần Hữu Lượng chưa phân được thua..Vua
sai Lê Kính Phu sang sứ phương Bắc để xem hư [22a] thực.
Mùa hạ, tháng 4, ChiềuTừ Hoàng thái phi mất, được truy tôn là Chiêu Từ
hoàng thái hậu (mẹ của Minh Tông).
Mùa thu,tháng 7, lấy Đỗ Tử Bình làm [tri] Khu mật viện sự.
Từ ngày 27 tháng 8 đến ngyà mồng 3 tháng 9, mưa to, nước lớn, trôi cả nhà
cửa của dân, thóc lúa bị ngập.
Mùa đông, tháng 10, lấy Phạm Sư Mạnh làm Hành khiển tả ty lang trung,
Lê Quát kiêm chức Hàn lâm viện phụng chỉ.
Canh Tý, [Đại Trị] năm thứ 3 [1360], (Nguyên Chí Chính năm thứ 20).
Mùa xuân, tháng 2, đúc tiền Đại trị thông bảo.
Thăng Huệ Túc công Đại Niên làm Bình chương chính sự, phục lại tước