người Bắc tham tàn làm khổ. Bắc Kinh đường xa, không biết kêu vào đâu,
bất giác xen lẫn cảm thương hổ thẹn, muốn tỏ lòng thành như Minh Tông
nhà Hậu Đường, thường thắp hương khấn trời: xin trời vì nước Việt ta sớm
sinh thánh nhân, tự làm đế nước nhà, để khỏi bị người phương Bắc cướp
vét.
Trở lên là thời thuộc Hán, từ năm Quý Mão đến năm Bính Dần, tất cả 144
năm [43- 186].
Kỷ Sĩ Vương
Sĩ Vương
78
Ở ngôi 40 năm, thọ 90 tuổi.
Vương là người khoan hậu khiêm tốn, lòng người yêu quý, giữ vẹn đất Việt
để đương đầu với sức mạnh của Tam quốc, đã sáng suốt lại mưu trí, đáng
gọi là người hiền.
[8a] Họ Sĩ, tên húy là Nhiếp
79
, tự là Ngạn Uy, người huyện Quảng Tín,
quận Thương Ngô. Tổ tiên người Vấn Dương nước Lỗ, hồi loạn Vương
Mãng ở Bắc triều, tránh sang ở đất Việt ta, đến vương là sáu đời. Cha là Tứ,
thời Hán Hoàn Đế làm Thái thú Nhật Nam. Khi còn ít tuổi, vương du học ở
kinh đô nhà Hán, theo học Lưu Tử Kỳ người Dĩnh Xuyên, chuyên trị sách
Tả thị Xuân Thu, có làm chú giải: được cử hiếu liêm, bổ làm Thượng thư
lang, vì việc công bị miễn chức; hết tang cha, lại được cử mậu tài, bổ làm
Huyện lệnh Vu Dương, đổi làm Thái thú Giao Châu, được tước Long Độ
Đình hầu, đóng đô ở Liên Lâu (tức là Long Biên)
80
. Sau nhà Trần truy
phong làm Thiên Cảm Gia Ứng Vũ Đại Vương.
Đinh Mão, năm thứ 1 [187], (Hán Trung Bình năm thứ 4). Vương có ba em
trai tên là Nhất, Vĩ
81
và Vũ. Bấy giờ Thứ sử Chu [8b] Phù bị giặc Di giết
chết, châu quận rối loạn, vương bèn dâng biểu cử Nhất làm Thái thú Hợp
Phố, Vĩ làm Thái thú Cửu Chân, Vũ làm Thái thú Nam Hải. Vương độ
lượng khoan hậu, khiêm tốn, kính trọng kẻ sĩ, người trong nước yêu mến,
đều gọi là vương. Danh sĩ nhà Hán tránh nạn sang nương tựa có hàng trăm
người.
Canh Thìn, năm thứ 14 [200], (Hán Hiến Đế Hiệp, Kiến An năm thứ 5).