Huyện lệnh Linh Lăng là Lại Cung thay Tân. Vua Hán nghe tin Tân chết,
gửi cho vương [Sĩ Nhiếp] bức thư có đóng dấu ấn nói rằng: "Giao Châu ở
cõi xa, một dải sông biển ở phía nam, ơn trên không truyền đến, nghĩa dưới
bị nghẽn tắc, thế mà nghịch tặc Lưu Biểu lại sai Lại Cung dòm ngó đất
Nam
89
, nay cho khanh làm Tuy Nam trung lang tướng trông coi bảy quận,
lĩnh Thái thú Giao Châu như cũ". Vương sai thuộc lại là Trương Mân mang
đồ cống sang kinh đô nhà Hán. Bây giờ thiên hạ loạn lạc, đường sá đứt
nghẽn, nhưng vương vẫn không bỏ việc nộp cống. Vua Hán lại xuống chiếu
cho làm An Viễn [11a] tướng quân, phong tước Long Độ Đình hầu. Sau
Thái thú Thương Ngô là Ngô Cự bất hòa với Cung, đem binh đánh đuổi,
Cung chạy về Linh Lăng.
Canh Dần, năm thứ 24 [210], (Hán Kiến An năm thứ 15). Ngô Vương là
Tôn Quyền sai Bộ Chất làm Thứ sử Giao Châu. Khi Chất đến, vương đem
anh em đến vâng theo mệnh lệnh. Ngô Vương cho vương làm Tả tướng
quân. Sau vương sai con là Ngẩm
90
làm con tin ở nước Ngô, Ngô Vương
cho làm Thái thú Vũ Xương. Các con của vương ở Nam đều cho làm Trung
lang tướng. Vương lại dỗ bảo thổ hào ở Ích Châu là bọn Ung Khải đem dân
chúng trong quận phụ thuộc xa với nước Ngô ở miền đông. Ngô Vương
càng khen, thăng làm Vệ tướng quân, tước Long Biên hầu. Vương thường
sai sứ sang nước Ngô dâng các thứ hương liệu, vải mịn, kể số hàng nghìn.
Các thứ quý lạ như ngọc trai, ốc lớn, lưu ly, lông trả, đồi mồi, sừng tê, ngà
voi [11b] cùng các thứ quả lạ như chuối, dừa, long nhãn, không năm nào
không tiến, lại cống ngựa hàng mấy trăm con. Ngô Vương viết thư ban cho
rất hậu để yên ủi và đáp lại.
Lê Văn Hưu nói: Sĩ Vương biết lấy khoan hậu khiêm tốn để kính trọng kẻ
sĩ, được người thân yêu mà đạt đến quý thịnh một thời. Lại hiểu nghĩa, thức
thời, tuy tài và dũng không bằng Triệu Vũ Đế, nhưng chịu nhún mình thờ
nước lớn, để giữ vẹn bờ cõi, có thể gọi là người trí. Tiếc rằng con nối
không gánh vác nổi cơ nghiệp của cha, để cho bờ cõi nước Việt đã toàn
thịnh mà lại bị chia cắt, đáng buồn thay !
Bính Ngọ, năm thứ 40 [226], (Hán Hậu Chúa Thiện, Kiến Hưng năm thứ 4;