liền trên mục năm Kỷ Hợi (399), có thể do sao chép văn bản sai vị trí.
124
Thạch Kỳ: tên trấn, ở phía Nam phủ trị Giao Châu (CMTB3, 24a).
125
Kiến Khang: kinh đô nhà Đông Tấn, vốn là Kiến Nghiệp, vì kiêng húy
Tấn Mẫn Đế, đổi thành Kiên Khang, tức Nam Kinh, Trung Quốc ngày nay.
126
Theo truyền thuyết Trung Quốc, Mạnh Bôn là dũng sĩ thời Chiến
Quốc, có thể nhổ được sừng bò; Hạ Dục, người nước Vệ thời Xuân Thu, có
thể nhổ được đuôi bò.
127
CMTB3, 27a sửa là năm Bính Tuất, niên hiệu Nguyên Gia thứ 23
(Theo Tống thư q.5 Đế kỷ, q.97 Nam Di Truyện). Nam Tề thư Lâm Ấp
truyện, chép việc này vào năm Nguyên Gia thứ 22 (445).
128
CMTB3, 26 chép tên thành là Khu Lật và dẫn Thủy kinh chú để chú
thích về thành này. Vị trí thành Khu Túc trước nay có nhiều ý kiến khác
nhau. Đào Duy Anh xác định đó là thành Lồi ở làng Cao Lao Hạ trên hữu
ngạn sông Gianh (Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Khoa học xã hội,
1964, tr.54).
129
Tượng Phố: CMTB3, 28b chua là tên huyện, Đào Duy Anh (Bdc) đoán
dịch là Cửa Đại, là cửa sông để vào kinh đô Lâm Ấp thời bấy giờ, ở khoảng
Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng ngày nay.
130
Nguyên bản thiếu tờ 12 a-b, chúng tôi dịch theo bản in Quốc tử giám
tàng bản.
131
Tống Minh Đế: tức là Lưu Úc, nguyên bản in sót nét, thành chữ Hoặc.
132
Hành Châu sự: người chấp hành công việc của châu. Thực tế Lý
Trường Nhân được chuẩn cho đứng đầu cai quản Giao Châu, tương đương