nhiều môn, vẫn được lĩnh bằng tốt nghiệp là giáo viên văn học. Với quan
niệm: “lãnh đạo là khó nhất mà còn làm được thì có việc gì mà chịu bó tay”
(trang 117).
Làm giáo viên văn học, Cẩm lên lớp giảng thì giải thích sai từ này, từ
khác là chuyện cơm bữa. Kiến thức nông cạn sơ sài không hiểu nổi nghĩa
của cụm từ, đứng trước học sinh: Cẩm chữa Hào khí Đông A thành hào khí
Đông nam châu Á (113). Vì thiếu một bề dày trí thức của một người thầy,
không đủ trình độ để diễn giảng nên khi giảng văn Cẩm có một công thức:
Đại ý, dàn bài, phân tích, kết luận. Phân tích thì cục cằn, mách qué. Bình
phẩm thì chỉ quanh quẩn mấy câu: Bài “Đại cáo Bình ngô” như thế là rất
tốt. Bài “Ngôn chí” như thế là rất có ý nghĩa (114). Và tư cách của Cẩm bị
anh em giáo viên khinh thường quá mức. Có lần xô xát với Thuật, Cẩm nói:
“Đồ chó, đồ khốn”, Thuật đáp lại: “Mày bảo ai đồ chó, hở thằng mõ?”.
Với chức vụ hiệu trưởng, đã dốt lại ưa thành tích nên Cẩm tìm cách báo
cáo láo. Biết môn toán thi hỏng nhiều, ban đêm nhân lúc ông Thống đi
vắng, Cẩm đã lẻn vào văn phòng mở tủ lấy bài sửa điểm để hôm sau báo
cáo trước hội đồng: “Ta thắng giòn giã. Dứt khoát năm nay ta lại tiên tiến
xuất sắc”. Còn bí thư chi bộ Dương thì cũng chẳng
kém: “trước cách mạng tháng Tám, Dương là học sinh “Moyen” (lớp
nhì) trường huyện. Sau cách mạng Dương tham gia tuyên huấn huyện, rồi
sang công an huyện. Năm 1960, được cử đi học lớp lý luận cao cấp chín
tháng, Bộ giáo dục xin về làm giáo viên chính trị cấp 3. Người giáo viên
cần có một kiến thức vững chắc, chu đáo về giảng dạy thì Dương không có
bề rộng lại thiếu chiều sâu. Hàng mấy chục năm nay, tự đắc một cách nông
cạn về vai trò thống soái của bộ môn mình, ông không bao giờ nghĩ tới việc
phải trau dồi học hành thêm. Ngay trong địa hạt ông vẫn tự hào, hiểu biết
của ông cũng chắp vá, thiếu cơ bản và lắm chỗ lỗi thời. Ông lại không có
cái tinh khôn uyển chuyển, bột phát của tư duy học thuật, không quen với
những biến thái nửa chừng, mu mơ, hư huyền của thực tại. Cẩm là cái thô