kệch tầm thường của đời sống vật chất bỗ bã. Ông là cái thô cứng, giản đơn
và tự thị quyền uy mù quáng của đời sống tinh thần”. Có lần Dương đã bộc
lộ cái nông cạn, đơn giản, mù quáng ấy với Tự: “Văn chương tự cổ vô bằng
cứ. Văn chương là tư tưởng. Mà tư tưởng nó như con lươn rúc bùn, như anh
chàng Tôn Ngộ Không bảy mươi hai phép thần thông biến hóa, sai đấy,
cũng đúng đấy, lập lờ phản trắc cũng là đấy. Văn chương là chỗ dễ mất lập
trường nhất đấy, đồng chí Tự ạ”.
Quan niệm của Dương về văn học thật là thô thiển và quái gở. Con
người ông còn thể hiện ở việc làm: “ông giải tán mấy lớp tiếng Anh với lý
do đang chống Mỹ học tiếng Anh, tiếng Mỹ làm gì hay là để nghe đài Hoa
Kỳ và vượt tuyến vào Nam”. Khi giảng dạy chính trị giải thích chữ Mácxít
là tên gọi của hai lãnh tụ cộng sản là Các Mác và Stalin. Giáo viên của
trường đi gặt giúp dân, Tự cao hứng làm bài thơ “Mùa cốm” dán ở báo
tường công đoàn. Dương bóc luôn và phán: “bài thơ có vấn đề chính trị, cụ
thể là vi phạm chủ trương bài trừ tục ăn cốm làm thâm hụt sản lượng lương
thực của huyện ủy”. Dương thường nghĩ mình là người có quyền, khi không
vừa ý điều gì là ông quát: “quá trớn hết sức! Phải chuyên chính, phải
chuyên chính!”. Mà chuyên chính là đồng nghĩa với việc gọi công an vào
trấn áp giáo viên trong trường.
Dương còn một thói xấu nữa là nhân danh cán bộ Đảng có quyền bóc
thư người khác để xem trộm. Thật là một hiện tượng kỳ quặc, một sự thiếu
văn hóa lạ lùng.
Trong tác phẩm, ta còn gặp những người cán bộ Đảng như phó ban tổ
chức tỉnh ủy ngấp nghé tỉnh ủy viên lại chỉ học hết lớp 3, bí thư thị ủy xuất
thân từ một người làm nghề đồ tể. Ông phát biểu nhân ngày khai giảng một
trường cấp 3 rồi sẽ mở cấp 4, cấp 5, cấp 6 (trang 99). Bí thư tỉnh ủy xuất
thân là bần nông, chưa bao giờ đọc hết một bài báo trong tạp chí Học tập,
thời gian ông đi bộ đội được làm giám mã. Một người như thế thì làm sao
chỉ đạo được phong trào của một tỉnh về kinh tế, văn hoá, xã hội? Vì thực