thì tất yếu phải độc đoán, độc ác, phải ghét và khinh trí thức, phải coi trí
thức như những cục phân, như những kẻ ít đáng tin nhất. Cái nghịch lý lớn
à đau lòng nhất là sự tiến hóa của nhũng người mang trong mình những
phẩm chất đó lại bị coi thường, khinh rẻ, nghi kỵ.
Ở đội ngũ “những kẻ bị tha hóa” thì Quỳnh là một tội nhân hơn là nạn
nhân. Không có một cách gọi nào khác hơn là Quỳnh đĩ đực và Quỳnh ma
cô, lưu manh. Hắn như một ung nhọt đã nhiễm trùng nặng nề và khả năng
làm lây lan, ô nhiễm ra môi trường xung quanh là rất lớn. Ở cô giáo dạy hoá
Thảnh lại là một trí thức dở, nhưng khát vọng vật chất tầm thường lại quá
lớn nó lấn lướt tát cả. Ở cô nữ sinh ngoan ngoãn Trình dạo nào thì là sự trả
thù đời vì bệnh tật, vì bị bỏ rơi, vì bị nghèo đói. Còn Xuyến - vợ Tự, người
đàn bà đầy bản năng, thích ứng kém trước đời sống, sức đề kháng quá yếu
ớt, lại phải bươn chải kiếm sống, nên khi tha hóa là trượt dài không phương
cứu chữa. Ngòi bút của Ma Văn Kháng khi mô tả những loại người này
thấm đẫm chất chua chát, xót xa, vừa khinh ghét, căm giận nhưng lại vừa
xót thương. Ở họ, sự biến đổi phần nhiều là do hoàn cảnh, bởi họ là những
cá thể yếu đuối, kém hiểu biết, không còn con đường nào khác để mưu sinh,
trong khi cũng như mọi người, họ muốn có được một cuộc sống dễ chịu nếu
không muốn nói là khá giả. Hoàn cảnh ấy có khi do họ tự tạo ra vì kém cỏi,
thiếu bản lĩnh, nhưng nhiều khi là do xã hội xô đẩy. Họ đáng được xót
thương, nhưng họ cũng phải tự chịu trách nhiệm về hành động của mình vì
những lẽ đó. Trong cái biến đổi “hợp lý” của họ, Ma Văn Kháng cũng thể
hiện một nghịch lý: người lao động phải coi mưu sinh là tất cả mục đích của
cuộc đời mình trong một hoàn cành ngặt nghèo ít tình người, tất yếu sẽ trở
nên lưu manh hóa hoặc chí ít khái niệm đạo đức cũng trở nên xa xỉ đối với
họ.
Như trên chúng tôi có nói tính chất triết luận, giải phẫu, phân tích những
trạng thái tinh thần, bộ mặt tinh thần của xã hội trong Đám cưới không có
giấy giá thú là phẩm chất nội dung cũng nhưtác phẩm, do vậy tất cả mọi