chúa Giêsu chịu nạn không còn là cái hình sắc mang khái niệm quái trạng,
trở thành một biểu tượng đẹp đẽ về sự xả thân đáng tôn thờ. Không còn vẻ
dửng dưng xa cách nữa, khi anh nhìn thấy hai dải băng đỏ thả dọc hai bên
bàn thờ hai hàng chữ kim tuyến óng ánh:
Sáng danh Chúa trên các tầng trời.
Bình an cho mọi người dưới thế.
Chẳng còn điều gì là bí ẩn cả. Tất cả đều gần gụi, dễ hiểu và Tự có thể
san sẻ, cảm thông.
Tuy nhiên Tự không thể giấu giếm được cơn chạnh lòng của anh. Anh
hơi buồn khi nghe thấy giọng đồng ca sai lạc của bầy trinh nữ quê mùa gồm
toàn các cô thôn nữ ở ngoại vi thị trấn, dường như chưa hề được tập dượt.
Và cuối cùng, xúc động nhất, để lại ấn tượng xót thương nhất trong anh, lại
chính là cái đám đông tụ họp trong gian thờ, những kẻ giống anh, có nhu
cầu sum họp, nhờ cậy nhau. Tôn giáo bao giờ cũng là một tình yêu nội giới.
Đức Chúa tỏa hào quang, chia phúc lộc cho con chiên. Nhưng, con chiên
của Ngài thì Tự không thể ngờ, sao họ lại có dáng hình những kẻ hành khất
đến thế. Họ đem theo những manh chiếu rách. Họ ngồi la liệt trên nền đá
lạnh. Tất cả đều chung một khuôn mặt xanh xám. rét mướt và ngái ngủ. Tất
cả đều mụ mị, lờ đờ. Tất cả đều chung một cảm giác tội lỗi và bổn phận. Và
Tự nhận ra, không loại trừ một ai trong đám người ăn xin lộc Chúa nọ, mọi
người, mỗi người đều thành kính trong mối liên hệ hư phù giữa họ với một
ý niệm siêu đẳng hiện hình là đấng Christ trên cao kia. Nghĩa là anh nhận ra
cái đời sống tâm linh kỳ quái, sâu thẳm của con người. Chính là tâm linh
của cả bày đàn ấy đang kêu rên thống thiết bên tai anh:
- Tôi xưng với Đức Chúa trời tôi là tội nhân và tin nhận Đứcc Chúa
Jésus Christ đã chịu chết trên cây thập tự giá để chuộc tội cho tôi và Ngài
đã phục sinh cho tôi được hưởng công bình. Còn bây giờ tôi tuyên nhận
Ngài là Cứu Chúa của tôi.