bậc bề trên. Phải chăng chính bản thân những mối quan hệ xã hội đó là sai
lầm? Thế thì ai cũng có thể tự do chọn lựa “những mối quan hệ” ưa thích
khác qua các phương tiện truyền thông đại chúng.
Trong hoàn cảnh như vậy, bản thân sự ủng hộ, bất kể việc đó có là gì,
gần như đã trở thành tiêu chuẩn độc nhất: ta thành công khi được mọi người
ủng hộ. Do vậy toàn bộ uy quyền, chứ không phải một phần, đều nằm trong
tay nhóm người ủng hộ dù nhóm đó có thực hay chỉ là tưởng tượng; và từ
những phản ứng của cha mẹ, đứa trẻ học được rằng không gì trong tính
cách của nó, không gì mà nó sở hữu, không sự thừa hưởng tên tuổi hay tài
năng, không việc gì đứa trẻ làm được đánh giá vì chính bản thân điều đó,
việc nào cũng chỉ được thẩm định dựa trên tác động của nó lên người khác.
Thành công gần như đồng nghĩa với việc quen được nhiều bạn, hay ít nhất
thì cũng phải là những người bạn đáng giao du. “Ai đã được ủng hộ, sẽ còn
được ủng hộ nhiều hơn nữa.”
Từ việc giáo dưỡng con cái đến việc “giáo dưỡng người cha”. Đứa trẻ
kiểu ngoại tại định hướng điển hình lớn lên trong một gia đình ít người ở
các khu đô thị san sát, hay một vùng ngoại ô. So với thời đại trước, người
cha còn rời nhà đi làm xa hơn, xa đến mức không tiện về nhà ăn trưa. Hơn
nữa, ngôi nhà không còn là nơi trú ẩn hoàn toàn riêng tư nữa. Khi quy mô
cũng như không gian sống của gia đình thu hẹp và người ta dần bỏ lối sống
chung với các thế hệ lớn tuổi như ông bà chú bác, đứa trẻ phải trực tiếp đối
mặt với những căng thẳng về cảm xúc của cha mẹ. Trong hoàn cảnh này,
đứa trẻ dần tăng nhận thức về cái tôi trong mối tương quan với mọi người
xung quanh, nhất là bởi các bậc phụ huynh cũng ngày càng có ý thức hơn
về điều đó.
Trong điều kiện kinh tế và xã hội mới, địa vị của trẻ được nâng lên.
Chúng không phải chịu giai đoạn túng thiếu và khổ cực dẫn đến phải mơ
ước về cuộc sống an nhàn và vui thú như một sự bù đắp. Không như ở các
xã hội trước, con gái không còn đầu tắt mặt tối ở nhà, rồi đến tuổi dậy thì
chúng bỗng nhiên được trao cho cái “vốn” duy nhất có thể tìm được - thân