ngoại tại định hướng, song Riesman vẫn làm mọi cách để tìm ra ưu điểm ở
“tính ân cần, nhạy cảm và khoan dung” vốn tiêu biểu cho một xã hội không
còn trông lên, không còn hướng về người lớn tuổi hơn và những uy quyền
truyền thống để được chỉ bảo nữa.
Đám đông cô đơn vẫn dễ dàng trụ được khi một trong những giả thuyết
nòng cốt của nó sớm sụp đổ. Đó là quan niệm cho rằng mỗi giai đoạn tính
cách xã hội (kiểu truyền thống định hướng, nội tại định hướng, ngoại tại
định hướng) tương ứng với một tỷ lệ tăng dân số. Trong bài phê bình Đám
đông cô đơn trên Tạp chí Xã hội học Mỹ, Margaret Mead đã sớm nhận xét
rằng bằng chứng Riesman đưa ra cho lý thuyết dân số là chưa đủ mạnh. Bà
không phải là người duy nhất hoài nghi trên phương diện này. Chính
Riesman năm 1949 cũng biết rằng mô hình dân số đã gây tranh cãi kịch liệt,
khi cuốn sách hãy còn trong giai đoạn sửa bản in thử. Đến khi sách tái bản
năm 1969 thì Riesman đã từ bỏ mô hình nhân khẩu học của mình. Sự xét lại
này đã không - và vẫn không - ảnh hưởng nhiều đến cuốn sách. Cuốn sách
đưa ra nhiều quan sát đến nỗi những độc giả dù bất đồng quan điểm sẽ chú
mục vào những đoạn khác và thấy mình được chỉ dẫn. Bản thân Mead cũng
đã lưu ý trong một đoạn rằng thói tuân thủ kiểu ngoại tại định hướng đã dẫn
dắt người Mỹ đi đến chỗ phóng chiếu các trung tâm quyền lực nằm ngoài
cái tôi - một lý do vì sao sự hoang tưởng trong đời sống Mỹ lại nổi bật như
vậy, và có lẽ cũng là lý do vì sao người Mỹ lo sợ thái quá rằng người Nga
sẽ tiếp quản họ. Bản thân tôi cũng đã rất ngạc nhiên về tính chất tiên tri
trong thảo luận của Riesman về “người dự đoán nội tình” như một kiểu
người trong xã hội mà mục tiêu là “không bao giờ để cho bất kỳ ai, sự
nghiệp hay sự kiện nào lừa phỉnh”. Hình ảnh Sam Donaldson, Chris
Matthews
và nhóm cộng tác đã được mường tượng ra rất lâu trước khi
nụ cười tự mãn trở thành một phong thái ăn tiền của các học giả
Washington. Nói tóm lại, như Margaret Mead diễn đạt, “hầu như đoạn nào
trong cuốn sách cũng khuyến khích ta có những suy đoán lý thuyết và… gợi
ý với độc giả những chương trình nghiên cứu bổ túc suốt đời”.