đoán thông qua việc nhận ra chúng là một phần trong di sản dành cho mình
với tư cách là con người, từ đó có thể hình thành một mối liên kết ngầm qua
thần thoại, giữa các lĩnh vực bị ức chế của người lớn và các lĩnh vực của
trẻ. Cuối cùng, truyện kể giúp trẻ nắm được vừa nhiều hơn vừa ít hơn so với
cái chúng thấy xung quanh, cả hành vi được tán thành lẫn hành vi mà dù
không được tán thành, cũng đã thực hiện; nói cách khác, truyện kể cung cấp
cho hành vi những khuôn mẫu sẽ không tìm thấy trọn vẹn trong bất kỳ
nhóm gần gũi nhất định nào.
Thế nhưng việc này còn phức tạp hơn thế nữa. Quả thực, chúng ta có thể
cho rằng bước chuyển dịch sang kiểu nội tại định hướng diễn ra đầu tiên
trong các nhóm mà, nhờ biết đọc biết viết hay thứ gì khác, tiếp cận được
với nhiều nét mập mờ càng lúc càng tăng lên trong phương hướng. Như
trong lý thuyết toán học về thông tin liên lạc thì mọi kênh đều có hòa lẫn cái
mà trong chuyên môn gọi là tạp âm với cái gọi là thông tin và do vậy hạn
chế tự do của người gửi, thì các thông điệp được nhắm đến hay được tin là
sẽ xã hội hóa lớp trẻ cũng không thể không chứa tạp âm với các ảnh hưởng
đa dạng, những ảnh hưởng có thể xã hội hóa thái quá hay phi xã hội hóa
chúng.
II. Các chức năng xã hội hóa của sách báo trong
giai đoạn nội tại định hướng
Khi các xã hội bước vào giai đoạn tăng dân số chuyển tiếp, giáo dục
chính quy tăng lên, phần là để đào tạo con người cho các nghiệp vụ mới,
chuyên môn hơn trong công nghiệp và nông nghiệp, phần là để thu hút lớp
trẻ không còn cần thiết ở nông trại, và việc học hành của chúng có thể được
năng suất tăng cao của xã hội lo liệu. Dĩ nhiên, những người trẻ này sẽ học
đọc. Nhưng người già cũng như người trẻ đều bị cái háo hức và mới lạ là
khả năng biết đọc biết viết tác động: khắp nơi người ta khao khát báo chí và
sách vở - một sự khát khao mà công nghệ và các phương tiện truyền bá
khơi dậy nhưng không thỏa đáp đầy đủ. Nỗi háo hức này, cơn đói khát này,