sử dụng một cách có hệ thống vào những năm 1930 thì hình như nó hứa hẹn
- giống như các nghiên cứu cộng đồng đã hứa hẹn nhưng theo kiểu khác -
đưa những người thấp cổ bé họng và những người tương đối thân cô thế cô
vào quỹ đạo của nhà nghiên cứu xã hội. Trong nỗ lực nhằm hiểu rõ hơn
công cụ này, tôi đã dựa vào công trình của bạn bè tại Phòng Nghiên cứu Xã
hội Ứng dụng và tại Văn phòng miền Đông của Trung tâm Nghiên cứu Dư
luận Quốc gia; và công trình đầu tiên mà Glazer cùng tôi hợp tác là một nỗ
lực nhằm hiểu rõ kiểu truyền thông đang diễn ra trong một khảo sát chính
trị và để xem một câu trả lời “không biết” có thể nghĩa là gì.
Lúc đó, chưa đầy một thập kỷ trước, nghiên cứu khoa học xã hội hãy còn
thiếu nước sơn bóng hiện nay, là quá trình và sản phẩm tầm vĩ mô. Có lẽ
thay đổi này là đặc biệt ấn tượng trong nhân học văn hóa, cái làm chúng tôi
quan tâm cũng không kém nghiên cứu dư luận.
Mặc dù Lloyd Warner đã dẫn đầu hay khuyến khích những chuyến khảo
sát thực tế quan trọng vào các cộng đồng hiện đại, nhưng cho đến Thế chiến
thứ hai, phần lớn các nhà nhân học vẫn còn là đại diện hàn lâm có phần
đứng ngoài rìa của cái mà ta có thể gọi là dữ liệu “ít được quan tâm”, tức là
dữ liệu từ các bộ lạc không có chữ viết, không có hải quân, không có cái
vẫn được gọi là “văn hóa”. Hơn nữa, do tính chất của các cuộc đi thực địa
thường là đơn thương độc mã, những nhà nhân học đành phải có một phong
cách nghiệp dư mà trong đó nghệ thuật, kinh tế học, thần thoại học, tập
quán nuôi dạy con cái, hệ thống luật pháp và hệ thống thân tộc, thảy đều
nằm trong tầm quan sát của họ và cần được tổ chức theo một chỉnh thể nào
đó. Khi ngành nhân học hãy còn nghèo khó, nó không thể lo nổi chi phí để
cử nhiều người đến cùng một nơi; và cả các bộ lạc nữa, họ cũng nghèo khó,
theo nghĩa là họ không biết tự che chở cho mình khi tiếp xúc với người da
trắng và không thể được cho là vẫn còn nguyên vẹn tới chuyến thực địa lần
sau của người da trắng. Hơn nữa, khi ngành nhân học còn nghèo khó, các
nhà nhân học rất chuyên quyền và quý tộc; ý tôi là, như các nhà phân tâm
học thời đầu, họ sẵn sàng khái quát hóa trên cơ sở bằng chứng nghèo nàn.
Họ thực hành một phương pháp đòi hỏi trí tưởng tượng và sự tự tin, cũng