chưa hoàn tất để còn nghiên cứu. Khi viết Đám đông cô đơn, chúng tôi tin
chắc rằng các ngành khoa học xã hội lâu đời hơn - lịch sử, khoa học chính
trị, kinh tế học - có quá ít sức nặng hầu giúp người ta thấu hiểu biến đổi xã
hội trong khi sự hiểu biết này có thể lượm lặt được nhờ lĩnh hội rõ hơn tâm
lý học phân tâm; ngay cả vậy, trong cuốn sách chúng tôi đã tìm cách nhấn
mạnh cả tính cách xã hội lẫn các định chế chủ yếu của thế giới hiện đại, chứ
không cho rằng các định chế ấy chẳng qua chỉ là các hình thù đông cứng do
những người lớn bị cầm tù khắt khe đem lại cho những giấc mơ ấu thơ của
họ. Thế nhưng mọi kinh nghiệm về thế giới của chúng tôi từ khi cuốn sách
được viết ra đã dẫn chúng tôi tới chỗ tin rằng xã hội công nghiệp hiện đại
có thể trưng dụng rất nhiều kiểu tính cách xã hội. Vì vậy mà chúng tôi thấy
ở Nhật các định chế hiện đại đủ mạnh để sáp nhập người ta mà không cần
phải chờ 20 hay 30 năm để có một thế hệ mới. Cái người Nhật làm và cái
họ nói đã thay đổi triệt để hơn tính cách xã hội của họ.
Xã hội nào đủ rộng lớn cũng đều có thể lập nhanh một danh sách các
kiểu tâm lý đa dạng đủ để gợi ý các khả năng theo nhiều hướng khác nhau;
ví dụ, nếu nước Mỹ không phải là phát xít thì đấy không phải vì nó thiếu
những kẻ bạo dâm hay độc đoán. Có rất nhiều những người như vậy để bố
trí vào các nhà lao và bệnh viện tâm thần tăm tối hơn, hay để tranh ghế cảnh
sát trưởng trong nhiều cộng đồng miền Nam; chính các hình thức định chế
và pháp luật - cùng các hạn chế của chúng - là cái làm cho những người này
khó tập hợp lại thành một phong trào chính trị. Thực vậy, những thứ bảo vệ
tự do này sẽ đổ sụp khi thiếu những người có tính cách phù hợp để điều
hành hay giám sát; nhưng quan niệm của chúng tôi là, trong phạm vi những
giới hạn rộng, ở một xã hội lớn thì các định chế sẽ đánh thức tính cách thích
hợp bên trong cá nhân. Hay chính xác hơn, căn cứ vào phạm vi các phản
ứng mà người ta có thể có, các định chế có thể chọn ra một số trong những
phản ứng này để củng cố (trong khi đó những cơn bốc đồng khác bất trị
hơn, thì được tẽ ra qua mọi loại lối thoát); và một khi các định chế đã tồn tại
- được tạo lập nhờ thành tựu của người tổ chức làm việc toàn thời gian như
Kenneth Boulding đã chỉ rõ trong The Organizational Revolution (Cách