Tôi vội vã rời khỏi căn hộ và chui ngay vào chiếc Austin Healey. Mười
phút sau, tôi đến nhà xác sau khi đã vượt qua tất cả những ngã tư đến đó.
Dừng xe cách cổng vào khoảng hai chục thước, tôi đi bộ đến đó.
Như mọi khi, ngọn đèn màu xanh trên cổng vào hắt ra một thứ ánh sáng
rất ư là thân tình và êm ả. Tôi thầm nghĩ, nếu trong ngôi nhà này có một con
quỷ nào trông như Bruno và thủ sẵn ở đó những dụng cụ như của y, thì chắc
tôi khỏi phải làm đơn xin thôi việc, bởi lúc đó chắc con tim nhỏ nhoi của tôi
đã đóng cứng cánh cửa tự động đóng lại một tiếng “sịch” nhẹ. Thế là, tựa
như một nhà thơ đã nói: tôi bây giờ một mình đối diện với đêm đen….
Tôi đứng im một lúc để làm quen với bóng tối. Một lúc sau, tôi mới nhận
ra rằng chiếc bóng của tôi in đậm trên khung kính lờ mờ phía sau là một
mục tiêu rất lý tưởng cho bất cứ ai đang rình rập trong phòng này.
Tôi rút súng ra khỏi bao, mở khóa an toàn và tiến vài ba bước về phía
bóng tối dày đặc trước mặt.
Phải chi tôi nhớ mang theo cây đèn pin thì hay biết mấy!
Nhưng lúc này tôi nào có nhớ gì đâu… Tôi tiến thêm vài bước nữa, đụng
phải cái quầy và thế là tôi đi men theo nó. Vẫn dò dẫm, tôi đẩy cánh cửa nhỏ
để hướng về phòng đông lạnh. Cửa phòng này để mở và khi đứng ở ngưỡng
cửa tôi thấy cái lạnh ẩm thấp nơi đây phả vào mặt tôi như những bàn tay đã
thoát xác đang cố tình trêu chọc.
Tôi rùng mình và nổi gai ốc khắp người… Chính vào lúc này, tôi bỗng
nghĩ đến Charlie Katz. Tôi cảm thấy căng thẳng và biết rằng mình đang ở
trong một tâm trạng mà nếu có một cái gì đó hoặc một ai đó - bất chợt động
đậy trong bóng tối, thì đương nhiên tôi sẽ không ngần ngại nhả đạn ngay. Và
nếu chẳng may nếu người đó là Charlie thì sau này tôi sẽ hối hận biết bao?
Tôi lớn tiếng gọi:
“Charlie? Charlie? Ông thần ơi, ông đang ở đâu vậy?”
Vẫn hoàn toàn im lặng. Tôi lê bước và tiến thêm sáu bước nữa, cho đến
khi bàn tay trái của tôi chạm phải gờ của một cái hộc. Dọc hai bên tường là
hàng kệ chứa những cái hộc đông lạnh với bên trong là xác người - điều mà
tôi cố né tránh, không dám nghĩ đến.