ngoài, và nếu rơi vào suy nhược, họ trở thành người tâm thần phân liệt.
Nhiều người có nhân cách phân lập, như chính bản thân Jung hồi còn nhỏ.
Là loại người mơ hồ với những chi tiết thực tế và định hướng kém về không
gian và thời gian, họ có khuynh hướng quên các cuộc hẹn, hiếm khi đúng
giờ, dễ bị lạc ở những nơi lạ. Mối quan hệ yếu kém với thực tại cộng với độ
sâu nội kiến của họ sẽ khiến một số người cảm thấy họ như thuộc loại “thiên
tài bị hiểu lầm”. Thái độ của họ đối với bản năng giới tính có thể thô sơ hoặc
không phù hợp, và họ thường là những người yêu kém cỏi vì không nhận
thức những gì đang xảy ra trong cơ thể của chính mình hoặc của bạn tình.
Độc giả nên thấy rằng những mô tả kể trên thường đã bị đơn giản hóa
quá mức, không xứng với những giải thích chi tiết mà Jung đã đưa ra.
Những ai muốn tìm hiểu kỹ hơn về loại hình học nên xem chương 10, tập 4
của Toàn tập.
Nguồn gốc
Việc tìm kiếm những đặc điểm tâm lý tiêu biểu không chỉ giới hạn
trong những nỗ lực của Jung. Tìm ra các mẫu số chung là cách thức mà chức
năng suy nghĩ luôn tiến hành khi đối mặt với dữ liệu phức tạp, và nhiều loại
hình học đã được đặt ra từ thời cổ cho đến hiện tại. Điều thú vị là những loại
hình học (typology) này thường được phân chia thành bốn. Cứ như thể tâm
trí có một thiên hướng tự nhiên là tự định hướng thông qua một bộ bốn gồm
các cặp đối lập. Công cụ định hướng không thể thiếu là la bàn từ tính cũng
là một trường hợp như vậy. Trong thế kỷ 5 trước Công nguyên, triết gia Hy
Lạp Empedocles cho rằng một bộ bốn yếu tố - đất và nước, gió và lửa - đã bị
chế ngự bởi một cặp cổ mẫu đối lập vĩ đại: Tình yêu và Xung đột. Cũng
khoảng cùng thời gian trên, bốn phẩm chất chủ yếu được định ra, gồm nóng
và lạnh, ướt và khô - đây cũng là một bộ bốn các cặp đối lập, giống như bốn
loại tính khí của Aristotle và bốn loại ý hướng của Hippocrates. Những hệ