Thật ra, vô thức tập thể là một giả thuyết khoa học đáng được coi trọng,
và người ta không cần dùng đến quan điểm Lamarck về sinh học để tán
thành nó. Như chúng ta đã thấy, nó hoàn toàn phù hợp với những trình bày
lý thuyết của các nhà tập tính học, sinh học xã hội và tâm thần học. Chính vì
để rũ bỏ gánh nặng của học thuyết Lamarck, Jung cuối cùng đã đưa ra sự
phân biệt rạch ròi giữa cái ông gọi là cổ mẫu tự thân - archetype-as-such
(tương tự như das Ding-an-sich
của Kant) và các hình ảnh, tư tưởng, hành
vi nguyên mẫu mà cổ mẫu tự thân sinh ra. Chính khuynh hướng có những
trải nghiệm nhất định mới mang tính chất cổ mẫu và được kế thừa, chứ
không phải bản thân trải nghiệm ấy. Nhà sinh học phân tử đoạt giải Nobel
Jacques Monod cũng đi tới một kết luận y hệt: “Mọi thứ đến từ trải nghiệm,
nhưng không phải từ trải nghiệm thực tế được lặp lại bởi từng cá nhân trong
mỗi thế hệ, mà là từ trải nghiệm tích tụ bởi toàn bộ tổ tiên của loài trong quá
trình tiến hóa”.
Như vậy, cổ mẫu của Jung không hề kém tin cậy về mặt khoa học hơn
so với IRM của tập tính học. Giống như danh mục hành vi của mỗi loài
được mã hóa trong hệ thần kinh trung ương của nó như những cơ chế phóng
thích bẩm sinh, được kích hoạt trong quá trình phát triển bởi những dấu hiệu
kích thích phù hợp, Jung cũng cho rằng chương trình sống của con người
được mã hóa trong vô thức tập thể như một loạt những cổ mẫu quyết định,
được thực tại hóa nhằm đáp ứng với sự việc bên trong và bên ngoài trong
tiến trình của vòng đời. Không có gì là học thuyết Lamarck hay phi sinh học
trong quan niệm này.
Cổ mẫu hay sự truyền bá văn hóa?
Những người phản đối giả thuyết cổ mẫu cũng không xem trọng việc
phát hiện ra những chủ đề tương đồng trong thần thoại của nhiều vùng khác
nhau trên thế giới. Họ cho rằng những trường hợp đó hoàn toàn có thể được