thức của chúng ta không tự tạo ra chính nó - nó tuôn ra từ những chiều sâu
không biết. Khi còn nhỏ, nó thức dậy dần dần, và trong suốt cuộc đời, mỗi
sáng nó thức dậy từ những giấc ngủ sâu của tình trạng vô thức. Nó giống
như một đứa trẻ được sinh ra mỗi ngày từ dạ con nguyên sơ của vô thức”
(Toàn tập XI, đoạn 935). Hết lần này đến lần khác, ông nhấn mạnh sự phụ
thuộc của “ý thức về cái tôi” vào sức sống liên tục của Ngã. “Cái tôi dựa vào
Ngã như vật được di chuyển dựa vào người di chuyển, như đối tượng dựa
vào chủ thể, bởi lẽ những yếu tố quyết định phát ra từ Ngã sẽ bao quanh mọi
phía của cái tôi, do vậy là cấp trên của nó. Ngã, giống như vô thức, là một
tồn tại tiên nghiệm, từ đó cái tôi tiến triển” (Toàn tập XI, đoạn 391).
Nếu diễn đạt theo trải nghiệm thời thơ ấu của Jung, cái tôi có thể được
xem là nhân cách “số 1”, còn Ngã là nhân cách “số 2”. Trong nửa đầu của
cuộc đời, điều thiết yếu là hình thành một cái tôi mạnh mẽ và hiệu quả nếu
người ta muốn xử lý khéo léo những nhiệm vụ của giai đoạn này, như tách
rời khỏi cha mẹ, ổn định bản thân trong một công việc hoặc nghề nghiệp, kết
hôn, lập gia đình… Chỉ ở nửa sau của cuộc đời, điều cần thiết mới là cái tôi
nhận ra địa vị phụ thuộc của nó trong mối quan hệ với Ngã - đây là một giai
đoạn không thể thiếu trong tiến trình cá thể hóa. Khi ấy, cái tôi bắt đầu
đương đầu với Ngã, và Ngã đương đầu với cái tôi. Thông qua sự trung gian
của chức năng siêu việt (chúng ta sẽ xem xét sau), quá trình đương đầu ấy
đem đến sự hợp nhất bản ngã và một ý thức cao hơn.
Mặt nạ nhân cách
Giống như mọi tòa nhà có một mặt tiền, mọi nhân cách cũng có một
persona (nghĩa đen là mặt nạ, giống như những mặt nạ của diễn viên Hy Lạp
cổ đại). Thông qua mặt nạ nhân cách, chúng ta định dạng bản thân theo cách
mình hy vọng có thể chấp nhận được đối với người khác. Đôi lúc, mặt nạ
nhân cách được gọi là cổ mẫu xã hội hoặc cổ mẫu tuân thủ, bởi lẽ sự thích