nhẵn bóng, như trong tác phẩm của Van Eyck, hoặc được quết một cách tự
do, giống như trong những tác phẩm của Rembrandt. Thực vậy, trong thế kỉ
17 khả năng linh hoạt tự phát của cây cọ còn gọi là ‘tính họa sĩ’
(‘painterliness’) rất được tán thưởng trong tác phẩm của Velázquez, và
chúng ta đã thấy trong Chương 1, kĩ thuật này đã thu hút các nghệ sĩ thuộc
phái ấn tượng. Một lớp sau cùng bằng dầu bóng để che chở bề mặt sơn dầu
khỏi bụi bặm, trầy xước, và thấm nước.
Những quy trình chuẩn bị của nghệ thuật hàn lâm - phác thảo sơn dầu
(oil sketch) hoặc vẽ sơ khởi (alla prima painting), đôi khi còn được gọi
theo tiếng Pháp là esquisse (sơ thảo) và ébauche (phác họa) - trở thành
những kĩ thuật chuẩn của các nghệ sĩ phái ấn tượng và những người kế tục
họ. Bức tranh Nhà thờ lớn ở Rouen (Hình 1) của Monet là một thí dụ tuyệt
vời mặc dù nó được sáng tạo thật trễ trong sự nghiệp của họa sĩ. Tính chất
linh hoạt của việc xử lí chất liệu và kết thức (texture) cùng với giải pháp
ánh sáng khiến tác phẩm nghệ thuật trở nên dễ tiếp cận hơn về mặt thị giác,
mặc dù vẫn còn có nhiều thứ để người xem thêm vào và ‘hoàn tất’ trong
hạn từ nhận biết những gì đang được tái hiện. Trong sự nhìn nhận về khả
tính của kĩ thuật mới vốn khiến các nghệ sĩ có thể nắm bắt được những hiệu
ứng của ánh sáng một cách hiệu quả hơn rất nhiều, Monet đã vẽ mấy hình
ảnh của nhà thờ lớn Rouen vào những thời điểm khác nhau trong ngày -
cho thấy các đối tượng thay đổi ra sao dưới những điều kiện đa dạng về ánh
sáng và khí quyển. Dáng vẻ chưa hoàn tất của những tác phẩm này đã gây
choáng váng cho Hàn lâm viện Mỹ thuật vào thời đó, nhưng sự phát triển
trong kĩ thuật và phương thức tái hiện đã là một khoảnh khắc thanh tẩy
trong nghệ thuật phương Tây.
Điêu khắc: tạo mẫu, khắc chạm, và đúc khuôn
Điêu khắc là nghệ thuật tạo ra những tái hiện trong ba chiều không
gian những hình tượng tự nhiên hoặc hư cấu. Nó bao gồm tượng tròn, có
thể thưởng ngoạn từ bất cứ hướng nào, cũng như phù điêu, trong đó các
đường nét được cắt vào một mặt phẳng. Điêu khắc là một phương tiện để