phẩm ấy rất sơ sài, nhưng điều này ít gây thắc mắc cho Winckelmann vì
ông muốn xem lịch sử nghệ thuật như là lịch sử về mỹ học hơn là về nghệ
sĩ. Winckelmann giới thiệu một khảo sát biên niên, có hệ thống về lịch sử
nghệ thuật. Những di sản nghệ thuật của thời cổ đại được xem như là
những biểu hiện mạch lạc của thời đại cổ điển, chúng vừa xác định vừa
tăng tiến thân phận con người (mặc dù Winckelmann không biết rằng nhiều
tác phẩm điêu khắc là những bản sao La Mã của các nguyên bản gốc Hy
Lạp). ‘Sự phát minh’ về Hy Lạp cổ đại, hoặc ít nhất sự thiết lập về nó như
một cao điểm của văn minh nhân loại là một thành tố thiết yếu của quan
niệm lấy châu Âu làm trung tâm (Eurocentric concept) của truyền thống lí
tưởng hay cổ điển. Tới phiên nó, điều này lại liên quan đến thời hiện đại.
Trong tác phẩm Sự mô phỏng hội họa và điêu khắc của người Hy Lạp
(Imitation of the Painting and Sculpture of the Greeks) vào năm 1755,
Winckelmann phát biểu:
Chỉ có một cách duy nhất cho những người hiện đại trở nên lớn lao,
và có lẽ là vô song,… là bằng cách bắt chước người xưa… Không chỉ
là cõi tự nhiên mà người Hy Lạp phát hiện trong những tác phẩm của
họ, mà còn hơn thế nữa, một cái gì cao siêu hơn cõi tự nhiên; cái đẹp lí
tưởng, những hình tượng sinh ra trong tâm trí.
Những ý niệm của Winckelmann chịu ảnh hưởng nặng nề từ những lí
thuyết về ngôn-ngữ vào giữa thế kỉ thứ 18, ngôn ngữ được xem như đã phát
triển các tiềm năng của nó để cho ta một sự hiểu biết rõ ràng về sự vật,
nhưng những quá độ trong phong cách và tu từ đã dẫn tới sự bại hoại của
ngôn ngữ. Ông vạch ra một con đường tương tự qua nghệ thuật, khi xem
nghệ thuật Hy Lạp cổ đại là cực đỉnh và sự vận động cùng sinh lực về sau
của giai đoạn Hy Lạp thống nhất (Hellenistic) [từ cái chết của Alexander
Đại đế vào năm 323 trước Công nguyên đến việc Octavian đánh bại
Cleopatra và Mark Antony vào năm 31 trước Công nguyên] như là sự ‘quá
độ’ và ‘bại hoại’. Ý niệm này về sự phát triển và suy thoái trong nghệ thuật
của thế giới cổ đại cho tới nay vẫn còn là cung cách biên niên tiêu chuẩn