Dionysus cũng vừa là Apollo - đó là bi kịch thành Athens’. Kiểu đối lập
này, vốn được trù tính để mang lại lợi ích vô cùng nhiều hơn so với bất cứ
điều gì có thể được tạo ra bởi chỉ một trong các mặt đối lập, là đặc trưng
của triết học Đức thế kỷ XIX, mà tiêu biểu hàng đầu là Hegel, một triết gia
mà Nietzsche nói chung chống đối mạnh mẽ trong suốt cuộc đời mình,
không nghi ngờ gì một phần là do sự gắn bó của ông với Schopenhauer,
vốn nổi tiếng căm ghét Hegel. Nhưng trong việc dựng lên mặt đối lập và
khắc phục nó, Nietzsche hoàn toàn không cần đến cơ cấu biện chứng mà
Hegel vướng víu với nó. Vì ông có thể vạch ra hệ thống của mình bằng các
hình ảnh và ví dụ, và đó là những gì ông đã làm, mặc dù những ví dụ
thường được sử dụng một cách có ý đồ.
Ý tưởng nói rằng Apollo là nghệ thuật của sự trình hiện, thực sự chỉ là
sự trình hiện. Nietzsche viện đến những giấc mơ để làm rõ quan điểm của
ông, rằng với đại diện tiêu biểu nhất của nó, nghệ thuật Apollo có sự trong
sáng khác thường, khi đưa ra những đường viền sắc nét cho những gì nó
mô tả, làm khuôn mẫu cho các principium individuationis (nguyên lý cá
nhân hóa) mà Schopenhauer đã xác định như là lỗi lầm quan trọng mà ta
mắc phải từ nhận thức luận - chúng ta cảm nhận và nhận thức về thế giới
bằng các đối tượng riêng biệt, bao gồm cả những con người riêng biệt. Là
con người với giác quan và cơ cấu khái niệm, chúng ta không thể tránh
được cách thức về cơ bản là sai lầm này khi xem xét thế giới; và với
Schopenhauer, nó chịu trách nhiệm cho nhiều ảo tưởng và trải nghiệm đau
đớn nhất của chúng ta, mặc dù không rõ việc khắc phục nó có khiến cho
cuộc sống của chúng ta bớt đáng sợ hơn chút nào không.
Trong BT, Nietzsche lợi dụng những nhầm lẫn trong tư tưởng của
Schopenhauer - không ở đâu cho thấy ông ý thức về chúng hơn ở
Schopenhauer - để tạo ra ‘siêu hình học của nghệ sĩ’, một cách độc lập, của
chính ông, khi ông viện đến phương pháp của mình trong ‘Cố gắng tự chỉ
trích’ (‘Attempt at a Self-Criticism’), lời giới thiệu tuyệt vời mà ông đã viết
cho lần xuất bản thứ ba của cuốn sách vào năm 1886, năm của sự tự phán
xét. Bằng cụm từ ‘siêu hình học của nghệ sĩ’, một phần ông muốn nói tới