giác’ của họ như một thứ được tin tưởng mà không xem xét kỹ lưỡng, trừ
khi chúng xung đột nhau. ‘Trực giác của tôi là…’ thường là cách phổ biến
để bắt đầu một cuộc thảo luận triết học, dường như nó đại diện cho tiếng
nói vĩnh cửu của nhân loại.
Cũng chính trên cơ sở này, nếu không phải của trực giác của chính
mình thì cũng của những người mà ‘chúng ta’ chia sẻ, mà nhiều lập trường
đạo đức của Nietzsche thường xuyên bị gạt bỏ, bị cho là của ‘lớp tinh hoa’,
‘phản dân chủ’,… Đây là một vấn đề quan trọng, và là điều mà bất kỳ nhà
bình luận Nietzsche nào cũng phải đối mặt. Tôi sẽ trích dẫn chi tiết, bình
luận từ cuốn sách của Henry Staten, mà tôi coi như cuốn sách sáng tỏ nhất
về Nietzsche, như mọi người đều nói vậy:
Niềm tin đạo đức của chúng ta không rơi từ trên trời xuống, cũng
không phải là tấm giấy căn cước mà ta có thể đưa ra như một phù hiệu
để xác lập sự trung thực đạo đức của mình. Hãy xem xét tất cả các
phần còn lại của lịch sử nhân loại, bao gồm hầu hết hành tinh này ở
thời điểm hiện tại. Phải chăng điều chúng ta đang nói đến là cảnh
tượng áp đảo của tàn ác, ngu dốt, và đau khổ? Có lập trường nào cho
phép chúng ta chấp nhận lịch sử này với sự tôn trọng, phán xét nào
giúp chúng ta bỏ qua được nó? Phải chăng tất cả đều là những sai lầm
lớn? Kitô giáo đã cố gắng để bù đắp sự đau khổ của lịch sử bằng cách
phóng chiếu một kế hoạch thiêng liêng để gán cho nó một lý do trong
hiện tại và một sự đền bù về sau, nhưng chủ nghĩa tự do là quá nhân
văn nên không thể tán thành lời giải thích ấy. Không có lời giải thích,
chỉ có thực tế tàn bạo. Nhưng thực tế tàn bạo mà chúng ta bị bỏ lại với
nó thậm chí còn buồn nôn hơn nhiều so với lời giải thích cũ. Vì vậy,
chủ nghĩa tự do thiên tả đóng gói nó trong một câu chuyện mới, một
câu chuyện đạo đức, theo đó bất kỳ ai sống trên trái đất, trong cỗ máy
lịch sử, đều được gán cho một vai trò có thể hiểu là nạn nhân của áp
bức và bất công. Có một mục đích luận tiềm ẩn trong quan điểm này,
chủ nghĩa tự do thiên tả hiện đại là telos (cứu cánh) cung cấp hình