thức và ý nghĩa cho phần còn lại của lịch sử. Chỉ vừa mới đây thôi,
chính nó có thể để một người như Schutte [Ofelia Schutte, trong cuốn
sách của bà, Bên kia chủ nghĩa hư vô: Nietzsche không đeo mặt nạ đã
trách cứ Nietzsche vì chủ nghĩa độc đoán của ông], viết với sự tự tin
nhiều đến mức những giá trị mà bà cho là sẽ được nhìn nhận như
chuyện đương nhiên bởi một thính giả hàn lâm, cũng y như một văn
bản thuyết pháp Kitô giáo cho một thính giả ngoan đạo. Và chỉ trong
vòng bảo vệ của cộng đồng, đức tin này mới có thể có được sự thỏa
mãn nào đó cho việc trình diễn màn kịch ngôn từ như vậy, mới có thể
có được ý nghĩa nào đó xứng đáng với công sức bỏ ra để tụng niệm.
Khi cộng đồng đạo đức, bằng cách ngâm nga như vậy, tự thuyết phục
về những niềm tin của mình, tỏa sáng như được ký thác bí mật về ý
nghĩa của lịch sử, như một nơi chốn mà người ta có thể đứng ở đó để
nhìn vào lịch sử và vượt qua sự phán xét về nó mà không trở nên tuyệt
vọng, hoặc phải tự bịt tai nhắm mắt. Có thể không hề có sự sắp đặt
nào đằng sau lịch sử, cũng không cách nào tô điểm cho những mất mát
với người đã chết, nhưng chúng ta có thể thấy một ranh giới vô hình
của sự chính trực xuyên suốt lịch sử và bằng cách đó giành được
quyền hạn đối với nó. Chống lại thứ ‘Nó là vậy’ đáng kinh sợ của lịch
sử, chúng ta đưa ra vẻ uy nghi đáng kính ‘Nó cần phải như vậy’.
Nhưng chủ nghĩa tự do của chúng ta xuất hiện ngày hôm qua và
cũng có thể ra đi vào ngày mai. Ngày xưa, những người cha lập quốc
còn sở hữu nô lệ da đen. Mảng sáng nhỏ bé nào của cái mà chúng ta
từng cư ngụ bất chấp sự tình cờ ngẫu nhiên của nó, sự tồn tại mong
manh của nó, cho phép chúng ta soi sáng toàn bộ quá khứ và có lẽ cả
tương lai hay không? Vì chúng ta muốn nói rằng, cho dù cộng đồng
niềm tin của chúng ta có thể không còn tồn tại nữa, nhưng điều đó sẽ
không ảnh hưởng đến hiệu lực của các niềm tin. Ranh giới của sự
chính trực vẫn sẽ xuyên suốt lịch sử.
(Staten. 1990: 78-9)