tưởng này một vẻ ngoài liên tục. Điều mà Nietzsche bắt đầu biện hộ trong
GS liệu có phải là một chủ nghĩa cá nhân cực đoan, trong khuôn khổ mà nó
không dẫn đến một nguyên tử luận (atomism) chắc chắn là không dễ hiểu.
Nhưng ngay khi bị ấn tượng bởi tầm nhìn của ông, chúng ta cũng bắt đầu
thắc mắc. Với phép loại suy nghệ thuật, hay nghệ thuật làm vườn cảnh, thứ
được phác họa lờ mờ ở đây là một nghệ thuật đáng yêu nhưng không thể
làm một cách thật sự triệt để. Người ta chỉ sống có một lần (tôi sẽ xem xét
sau với Quy hồi Vĩnh cửu [Eternal Recurrence], thứ mà dù sao cũng không
giúp gì được: những sai lầm đã, đang, và sẽ lặp đi lặp lại). Nhưng người
nghệ sĩ, với những ngoại lệ hiếm hoi, có thể sửa chữa tác phẩm của mình
vô hạn định cho đến khi cảm thấy nhận được đúng thứ mà mình mong
muốn. Điều Nietzsche đang đề nghị là tiến hành một cuộc khảo sát tỉ mỉ
tính cách của chúng ta, đánh giá nó, mặc dù ở giai đoạn này, chúng ta
không được biết là bằng những tiêu chuẩn nào - cái gì được xem là điểm
mạnh và điểm yếu - và cho nó sự hòa hợp được gọi là có phong cách. Việc
khớp các yếu tố hóa trang của chúng ta thành ‘một sơ đồ nghệ thuật’ không
gì khác là gây ấn tượng rằng chúng ta ít lệ thuộc vào sự ngẫu nhiên bên
ngoài hơn bất kỳ ai, ngoại trừ một ẩn sĩ lánh đời.
Bất chấp những nghi ngờ ban đầu, có sự hấp dẫn trong những đề nghị
của Nietzsche. Nó mở đầu hình thức mới của ông về chủ nghĩa cổ điển, nơi
mà ‘chính những tính chất mạnh mẽ nhất và độc đoán nhất đang thưởng
thức vẻ vui tươi tốt nhất của chúng trong sự gò ép và hoàn hảo theo luật của
riêng chúng’, trái ngược với ‘tâm tính yếu đuối không có uy quyền với
chính mình nên căm ghét sự gò bó phong cách’ (tức là chủ nghĩa lãng
mạn). Và mặc dù Nietzsche đưa ra rất nhiều ý tưởng về phong cách cá
nhân, nhưng rõ ràng là ông đang kêu gọi một quan niệm về phong cách tồn
tại bên ngoài các cá nhân: nếu đã không có một tiêu chí bên ngoài nào đó
thì bất kỳ ai cũng sẽ có phong cách miễn là phân biệt được với những
người khác. Việc đơn thuần sử dụng khái niệm về phong cách là đủ để
chúng ta nghĩ về những khuôn khổ được định trước mà trong đó người ta
làm việc, đạt được cá tính nhờ vào sự hỗ trợ mà khuôn khổ đó cung cấp.