lệ, bởi tôi quá nhớ thương nàng cho dù những gì còn lại lúc này chỉ là hình
bóng.
Sau khi về tới nhà và dùng bữa tối, thay vì theo thông lệ, tôi thường tới ngồi
thư giãn ở phòng khách cùng những người khác, đôi khi là nghe đài, nghe
đĩa nhạc, trò chuyện hay đọc báo, tôi lại xin phép về phòng ở một mình. Tôi
không thể cùng mọi người nghỉ ngơi được bởi tôi biết chắc chắn mình sẽ
chẳng giúp ích gì cho họ cả. Đầu óc tôi gần như đã bị tê liệt bởi nó chỉ nghĩ
về duy nhất một chuyện mà thôi.
Tôi cố gắng tìm cách nguôi ngoai những nỗi nhớ miên man về công nương
Kirati bằng việc tìm đường cho những nghĩ suy đó được giải thoát, còn hơn
cứ để cho chúng âm ỉ trong lòng tới mức không thể chịu đựng nổi. Nhưng
cũng không có ai thích hợp để tôi có thể giãi bày những tâm sự của mình.
Tôi vẫn đủ tỉnh táo để không thông báo với ai đó rằng mình đang yêu say
đắm công nương Kirati, yêu người phụ nữ vốn là vợ người bạn hữu của cha
mình. Tôi vẫn còn đủ minh mẫn để biết rằng, lời nói đó sẽ làm hại chính tôi
và người phụ nữ tôi yêu. Rất ít người sẽ đồng tình và thông cảm cho tôi.
Chỉ còn một cách cuối cùng, đó là giãi bày tình cảm nhức nhối của tôi cho
nàng biết, tôi liền cầm bút viết một bức thư gửi tới công nương Kirati ngay
trong đêm hôm đó. Đây chính là bức thư đầu tiên.
Công nương yêu quý của tôi!
Tôi gần như không còn tỉnh táo bởi nỗi nhớ cứ trào dâng trong lòng, khi
gương mặt công nương dần xa khuất và tôi hiểu rằng mình không còn được
ngắm nhìn vẻ đẹp của khuôn mặt đó nữa. Tôi gần như ngã quỵ tại bến tàu
khi bàn tay nhỏ ngừng vẫy bởi không còn đủ sức lực để vẫy nữa. Tôi không
biết mình đã trở về Tokyo bằng cách nào, tôi đã trở về Tokyo ngay trong
đêm hôm đó với cảm giác quay cuồng như một kẻ say rượu.
Tôi không thể trải qua đêm thứ hai không có công nương nếu không được
giãi bày phần nào những cảm xúc từ tận đáy lòng. Tôi gần như phát điên vì