phương trình hóa học vào vở, cô thường chạm vào tay anh thay vì cất tiếng
gọi anh và cái cảm giác đó thường đọng lại hàng giờ sau. Vào các buổi
chiều, khi làm việc trong gara, anh thường thấy mình không thể thôi nghĩ
về cô. Phải đến tận mùa xuân anh mới lấy hết can đảm để hỏi xem liệu anh
có thể mua kem cho cô không, và đến cuối năm học, họ bắt đầu dành nhiều
thời gian hơn cho nhau.
Đó là năm 1984, anh mười bảy tuổi. Khi mùa hè kết thúc, anh biết mình
đang yêu, đến khi không khí dần se lạnh, và những chiếc lá mùa thu rơi
xuống mặt đất như những dải ruy băng màu vàng và đỏ, anh chắc chắn rằng
mình muốn dành cả cuộc đời ở bên cô, dù điều đó nghe thật điên rồ. Họ ở
bên nhau trong năm tiếp theo, ngày càng gần gũi hơn và họ gặp nhau bất cứ
lúc nào có thể. Với Amanda, anh có thể dễ dàng là chính mình. Có
Amanda, lần đầu tiên anh thấy hài lòng với cuộc sống. Thậm chí cho tới tận
bây giờ, khoảng thời gian đó đôi khi là tất cả những gì anh có thể nghĩ tới.
Hay chính xác hơn, Amanda và tất cả những gì anh có thể nghĩ tới.
• • •
Trên máy bay, Dawson đã yên vị ở chỗ ngồi. Anh ngồi gần cửa sổ ở giữa
máy bay, cạnh một phụ nữ trẻ, tóc đỏ, tầm ba mươi lăm tuổi, chân dài, cao
ráo. Không hẳn là típ anh thích, nhưng đủ xinh đẹp. Cô ta nghiêng về phía
anh khi tìm đai an toàn và mỉm cười vẻ xin lỗi.
Dawson gật đầu, nhưng cảm nhận được rằng cô ta sắp bắt chuyện, anh
liền quay ra nhìn chằm chằm qua cửa sổ. Anh nhìn xe chở hành lý rời xa
khỏi máy bay, và như thường lệ anh đắm chìm vào những ký ức xa xôi về
Amanda. Anh mường tượng lại những lần họ đi bơi ở sông Neuse mùa hè
đầu tiên, cơ thể họ ướt đẫm khi chạm vào nhau; hay cô thường ngồi ghé lên
bàn thợ trong khi anh sửa xe của mình trong gara của Tuck, tay cô ôm lấy
đầu gối lúc này đang co lên, hình ảnh đó khiến anh nghĩ mình không muốn