em Lý Minh, Lý Bảo, Lý Khả ở Hoàng Pha (Hoàng Động, Thủy Nguyên),
ông tổ họ Phạm ở Đằng Giang (An Hải, Hải Phòng) cũng chiêu mộ dân
binh, hăng hái tham gia kháng chiến.
Vùng cửa sông và vùng hạ lưu sông Bạch Đằng được Ngô Quyền chọn làm
chiến trường quyết chiến.
Bạch Đằng ngày ấy cũng như ngày sau vẫn mang "tên nôm" giản dị: Sông
Rừng!
Sông Rừng thường có sóng bạc đầu, vì vậy mới có thêm một "tên chữ"
Bạch Đằng giang.
Bộ sử Cương mục mô tả:
"Sông rộng hơn hai dặm, ở đó có núi cao ngất, nhiều nhánh sông đổ lại,
sóng cồn man mác giáp tận chân trời, cây cối um tùm che lấp bờ bến".
Bạch Đằng là cửa ngõ phía đông bắc và là đường giao thông quan trọng từ
Biển Đông vào nội địa Việt Nam. Cửa biển Bạch Đằng to rộng, rút nước từ
vùng đồng bằng Bắc Bộ đổ ra Vịnh Hạ Long. Từ cửa biển ngược lên gần
20 km là đến cửa sông Chanh. Phía hữu ngạn có dãy núi vôi Tràng Kênh
với nhiều hang động, sông lạch và thung lũng hiểm trở.
Hạ lưu sông Bạch Đằng thấp, độ dốc không cao nên chịu ảnh hưởng của
thủy triều khá mạnh. Lúc triều dâng, nước trải đôi bờ đến vài cây số. Lòng
sông đã rộng, lại sâu, từ 8 m - 18 m. Triều lên xuống vào độ nước cường,
nước rút đến hơn 30 cm trong một giờ, ào ào xuôi ra biển, mực nước chênh
lệch khi cao nhất và thấp nhất khoảng 2,5 - 3,2 m.
Lịch sử thành tạo vùng Bạch Đằng trên đây và một số tài liệu địa lý học
lịch sử cho phép khẳng định, cửa sông Bạch Đằng thế kỷ 10 không phải là
cửa Nam Triệu với địa hình như hiện nay.
Lúc bấy giờ cửa sông Nam Triệu là cửa biển chung của sông Cấm (hay
sông Nam Triệu) và sông Bạch Đằng. Cửa biển Bạch Đằng ngày xưa ở vào
khoảng đó, nằm sâu vào phía trong so với cửa Nam Triệu hiện nay khoảng
hơn chục cây số. Giữa vùng thiên nhiên sông biển đó, trên cơ sở sức mạnh
đoàn kết và ý chí độc lập của cả dân tộc, Ngô Quyền khẩn trương giàn bày
một thế trận hết sức mưu trí, lợi hại để chủ động phá giặc.
Ông huy động quân dân vào rừng đẵn gỗ, vót nhọn, bịt sắt (hẳn số thợ rèn