nhiều tác giả
Danh Nhân Đất Việt
Lê Thánh Tông
T
ên tuổi và sự nghiệp Lê Thánh Tông gắn chặt với một giai đoạn
cường thịnh của Việt Nam ở nửa sau thế kỷ 15.
Lê Thánh Tông tên là Tư Thành, hiệu Thiên Nam động chủ, con thứ tư Lê
Thái Tông, mẹ là Ngô Thị Ngọc Dao. Ông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm
Tuất (1442) tại nhà ông ngoại ở khu đất chùa Huy Văn Hà Nội ngày nay,
mất ngày 30 tháng giêng năm Đinh Tỵ (1497).
Lê Thánh Tông lên làm vua năm 1460, hai lần đổi niên hiệu: Quang Thuận
(1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497). Trong gần 40 năm làm vua, ông đã
đưa triều Lê phát triển tới đỉnh cao về mọi mặt: chính trị, xã hội, kinh tế,
quốc phòng, văn hóa. Sử gia Ngô Sĩ Liên khen Lê Thánh Tông là "vua sáng
lập chế độ, mở mang đất đai, bờ cõi khá rộng, văn vật tốt đẹp, thật là vua
anh hùng, tài lược".
Về phương diện văn học, Lê Thánh Tông là một nhà thơ lớn, tác phẩm ông
để lại rất phong phú, vừa thơ, vừa văn xuôi, vừa Hán, vừa Nôm, hiện còn
được sao chép trong các tập: Thiên Nam dư hạ (trong đó có bài phú nổi
tiếng Lam Sơn Lương Thủy phú), Châu Cơ thắng thưởng Chinh Tây kỷ
hành, Minh lương cẩm tú, Văn minh cổ xúy, Quỳnh uyển cửu ca, Cổ tâm
bách vịnh, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn...
Nhà cải tổ và xây dựng đầy nhiệt huyết
Nhờ sự ủng hộ sáng suốt, quyết liệt của nhóm đại thần Nguyễn Xí, Đinh
Liệt..., Lê Thánh Tông đã bước lên ngai vàng giữa lúc triều chính nhà Lê
đang lục đục mâu thuẫn. Lên nắm chính quyền, Lê Thánh Tông nhanh
chóng chấm dứt tình trạng phe phái trong cung đình, khẩn trương tổ chức
xây dựng đất nước với một tinh thần cải cách mạnh mẽ, táo bạo. Về cơ cấu
chính quyền các cấp, ông đã tiến hành xóa bỏ hệ thống tổ chức hành chính
cũ thời Lê Lợi từ 5 đạo đổi thành 12 đạo (tức 12 thừa tuyên). Bên cạnh cải
tổ cơ chế Nhà nước, Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý các biện pháp phát triển
kinh tế, sửa đổi chế độ thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp,