líu gì đến ngọn lửa đó cả”.
“Vậy thì ai khác có thể làm chuyện này chứ?”, cô hỏi thay vì thừa nhận
niềm tin cô dành cho anh đã bị lung lay.
“Anh đã nhìn thấy hắn”. Giọng Anson nhỏ xíu, cô bé không sao nghe rõ
được. “Cái gì c ơ?” cô hỏi hổn hển. “Là ai?”.
“Anh không thể cho em biết được”.
“Tại sao chứ?”, cô bé gần như hét lên. Cô đâu có ngốc và cô cũng sẽ không
để anh dối gạt cô đâu. “Anh không biết tên hắn”, Anson rên rỉ, rõ ràng là rất
thất vọng. “Trước đây anh có nhìn thấy hắn, nhưng anh không biết hắn là ai.
Hắn có đến dùng bữa tại nhà hàng. Nhưng anh chỉ gặp hắn một lần và lần
thứ hai là cái đêm xảy ra hỏa hoạn. Anh thề đó là sự thật. Đáng lẽ ra anh
không nên kể với em nhiều như thế này... Anh không muốn kéo em vào mớ
rắc rối mà anh đã gây ra cho em”.
“Nhưng Anson, em...”. “T ất cả những gì anh mong muốn”, cậu nói, ngắt
lời Allison, “tất cả những gì anh mong muốn từ em là hãy tin ở anh. Nếu
em không thể làm được, thì anh chẳng còn gì để nói nữa...”.
“Đừng cúp máy”, cô bé hét lên.
Cô nghe được tiếng è è ở đầu dây bên kia và nước mắt không biết từ đâu thi
nhau rơi lã chã. “Anson?”.
“Anh đây. Anh nên cúp máy thôi”, cậu nói.
“Không, đừng mà anh”. Cô cảm thấy như mình sắp gục ngã đến nơi rồi.
“Anh không thể nói chuyện với em thêm nữa”.