NGÀY THỨ BA (2)
HỌ BƯỚC QUA CỬA, tiến vào một khu buồng giam có tường và sàn bằng
đá cẩm thạch chạy theo suốt dọc pháo đài dưới một mái vòm rộng ba mét
và cao bốn mét hai mươi. Ánh sáng duy nhất trong căn phòng đến từ mấy ô
cửa sổ cao ở đầu và cuối sảnh, nước rỏ tong tỏng từ trần xuống đọng thành
vũng trên sàn. Các buồng giam được bố trí bên phải và bên trái họ, nằm im
lìm trong bóng tối.
Baker nói, “Máy phát điện chính của chúng tôi bị hỏng vào khoảng bốn
giờ sáng nay. Khóa ở các phòng giam đều được điều khiển bằng điện. Đó là
một trong những sáng kiến mới của chúng tôi. Sáng kiến tuyệt vời chết mẹ!
Thế nên tất cả các của phòng giam đồng loạt mở vào lúc bốn giờ sáng. May
là chúng tôi còn sử dụng thêm cả khóa thường nên hầu hết bệnh nhân vẫn
còn ở trong phòng và chúng tôi khóa họ lại, nhưng một tên trong số đó
không hiểu sao lại có được chìa khóa. Hắn thoắt ẩn thoắt hiện, lẻn tới mở
cửa các phòng giam khác, ít nhất mỗi lần một phòng rồi lại biến mất tiêu.”
Teddy nói, “Có phải là một gã hói đầu không?”
Baker nhìn anh. “Hói đầu? Đúng vậy. Hắn ta là người mà chúng tôi
không sao bắt được. Chắc là hắn. Tên hắn là Litchfield.”
“Hắn ta chơi trò đuổi bắt ở cầu thang chỗ chúng tôi vừa đi qua. Cầu
thang dưới kia kìa.”
Baker dẫn họ tới buồng giam thứ ba phía bên phải và mở cửa ra. “Vứt
hắn vào đó.”
Họ mất vài giây để lần mò chiếc giường trong bóng tối. Baker bật đèn
pin soi cho họ đặt Vingis xuống giường, hắn khẽ rên rỉ, máu sủi bong bóng
trong mũi.
“Tôi cần có thêm người hỗ trợ để đi tìm Litchfield,” Baker nói. “Tần
hầm là nơi nhốt những kẻ chúng tôi thậm chí không thể cho ăn được nếu
không có ít nhất sáu lính gác trong phòng. Nếu bọn chúng mà xổng ra thì sẽ
có một vụ Alamo
mới ở đây.”
“Cậu nên gọi hỗ trợ y tế trước,” Chuck nói.