con của mình trong cái hồ phía sau nhà. Lôi chúng ra đó từng đứa một và
giữ chặt lấy đầu cho tới khi chúng chết. Rồi cô ta mang chúng về nhà, xếp
chúng ngồi xung quanh bàn bếp và dùng bữa cho tới khi một hàng xóm tạt
qua.”
“Cô ta có giết người hàng xóm không?” Chuck hỏi.
Lông mày của Cawley lại nhướng lên và ông ta khẽ thở dài. “Không.
Mời ông ta ngồi ăn sáng với họ. Ông ta từ chối, tất nhiên, và gọi cho cảnh
sát. Rachel vẫn tin là những đứa trẻ còn sống và đang chờ cô ta. Điều đó có
thể giải thích tại sao cô ta tìm cách bỏ trốn.”
“Để về nhà,” Teddy hỏi.
Cawley gật đầu.
“Và đó là nơi nào vậy?” Chuck hỏi.
“Một thị trấn nhỏ ở Berkshires. Cách đây khoảng hai trăm kilomet.”
Cawley quay đầu và chỉ về phía cửa sổ sau lưng ông ta. “Bơi từ phía này,
phải mất hai mươi kilomet mới tới đất liền. Bơi về phía Bắc thì tới
Newfoundland mới gặp đất liền.”
“Các ông đã cho tìm kiếm trên đảo?” Teddy hỏi.
“Rồi.”
“Tìm kỹ chứ?”
Cawley không trả lời ngay, tay mân mê bức tượng bán thân hình con
ngựa bằng bạc để trên góc bàn. “Ngài trại trưởng và người của ông ấy cùng
một tiểu đoàn hộ lý đã mất cả đêm và gần một buổi sáng lùng sục hòn đảo
cùng tất cả các tòa nhà trong viện. Không một dấu vết. Rắc rối hơn ở chỗ
chúng tôi không tài nào hiểu nổi cô ta ra khỏi phòng mình bằng cách nào.
Nó bị khóa từ bên ngoài và cửa sổ duy nhất đã bị bịt chấn song. Chúng tôi
cũng không tìm thấy dấu hiệu nào cho thấy khóa bị mở.” Ông ta rời mắt
khỏi con ngựa, liếc sang Teddy và Chuck. “Cứ như thể cô ta bốc hơi qua
những bức tường.”
Teddy ghi lại từ “bốc hơi” vào sổ. “Ông chắc là cô ta ở trong phòng lúc
tắt đèn chứ?”
“Chắc chắn.”
“Vì sao?”